Tiếp
cận Nho giáo, đặc biệt Khổng Tử có lẽ cần phải khác với cách làm truyền thống.
Thực tế đang cho chúng ta thấy, cũng là xã hội Nho giáo song Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc lại vượt lên nước ta. Đi theo chủ nghĩa Mác-Lê nin, không lẽ là
chúng ta không đã/ đang thoát khỏi chiếc bóng quá khứ của chính mình? Vậy điều
còn lại ở đây là gì? Phải chăng cái mảnh đất sản sinh ra, nuôi dưỡng, dung
dưỡng Nho giáo! Nếu thế thì cần phải có “sấm sét tư tưởng đánh vào cái mảnh đất
nhân dân hãy còn nguyên vẹn ấy” để công cuộc giải phóng người Việt Nam ta
thành con người…
Tôi
viết tiểu luận này không nhằm cuộc cách mạng sấm sét tư tưởng. Thực ra tôi
không có sức. Hơn nữa vấn đề này thực sự to tát. Điều tôi có thể làm là được
góp vào việc chỉ ra cái mảnh đất cằn cỗi ấy để “nhử” sự tập trung của những tia
sét hòng thoát ra sớm hơn cái bóng của chính mình thay vì giãy dụa trong cái
bóng ấy.
Bài
viết đây tôi lấy cảm hứng từ ý tưởng của GS. Trần Đình Hượu. Sẽ không có gì là
lạ nếu tôi tiếp tục được những ý tưởng của ông trên nền học thuật của cá nhân
tôi tích lũy được. Tất nhiên tôi không thể khỏi những ảnh hưởng của những nhà tư tưởng,
những học giả uyên thâm về Nho học, chẳng hạn, cụ Trần Trọng Kim.
Xin
cảm ơn tác giả các tập giáo trình về Lịch sử triết học Đông Phương.
Tiểu
luận này tôi đưa vào nhãn HỌC THUẬT là có ý tiếp nhận mọi sự phê bình. Được như
thế thật không gì bằng bởi nó đã hoàn thành nhiệm vụ của nó: thu hút sấm sét tư
tưởng…
[1]. Sự tan
rã của những quan hệ thị tộc bộ lạc từ thời nhà Thương-Ân đã đưa Trung Hoa cổ
đại thành một xã hội liên hợp có vua chung – người cha của các thị tộc, mà tộc
trưởng của một thị tộc trong liên minh các thị tộc, bộ lạc có thế lực lần lần
“thay nhau” làm thủ lĩnh cũng là vị đại giáo chủ tuyệt đối tối thượng.
Cho đến “Đại
cách mạng Văn hóa” với “bài phong, đả Khổng”, diễn tiến lịch sử của xã hội
Trung Hoa như vẫn chỉ làm sâu sắc thêm xu hướng này, một khi nó khư khư bám
víu vào ngọn cờ Nho giáo!
Không phải
vì thuận theo “phép tiên vương” mà nó cứ phải hoài niệm mãi với quá khứ xa xăm
về thanh gươm với tấm choàng đạo đức như chiếc kim trong giẻ còn mải chịu nằm
yên. Nó duy trì mãi được tình trạng này là bởi Trung Quốc ngày nay chưa là gì
với Trung Quốc thời sản sinh ra những tư tưởng tân kỳ mà“Con đường và các
biện pháp thích hợp để giải quyết các vấn đề của Trung Quốc chỉ có thể được tìm
thấy trong chính Trung Quốc” (Tập Cận Bình).
Tinh thần cơ
bản của nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 ĐCSTQ (10-2015) “dĩ pháp trị quốc” nhấn
mạnh tiếp tục đẩy mạnh cải cách kĩ thuật về pháp lý ở Trung Quốc bằng cách vô
hiệu hóa các yếu tố nguy hại đối với trung ương, đặc biệt sự phân tán quyền lực
và các lực lượng pháp lý độc lập, thay vào đó là sự cổ súy cho hoạt động quản
trị tập trung một thiên hướng truyền thống ngày càng được phủ dày thêm lớp
tuyết Trung Hoa cổ kính.
[2]. Lịch sử
nhân loại thời cổ đại cho thấy điều gì nếu không phải sự phát triển cộng đồng
là quá trình thường xuyên phá vỡ tính tự nhiên và mối liên hệ thống nhất của
sản xuất dựa trên các mối liên hệ cộng đồng. Quá trình này được bắt đầu cùng
với sỡ hữu tư nhân, sự hình thành con người cá nhân tư hữu và sự tan rã của các
công xã – những cộng đồng tự nhiên của con người. Nguyên nhân chủ yếu của quá
trình này là sự di cư của các thị tộc bộ lạc, hay của liên minh các thị tộc bộ
lạc hòng chiếm cứ (sau dần là chiếm đoạt) những điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho việc tổ chức lao động, khiến con người tự nhiên lần lượt rơi vào những điều
kiện lao động mới. Đó là việc sản xuất ra những công cụ phục vụ nông nghiệp, mở
rộng chiến tranh – một hiện tượng sinh hoạt bình thường của xã hội nguyên thủy,
và thỏa mãn nhu cầu thực hành, bành trướng tín ngưỡng, tôn giáo…
Trung Hoa cổ
đại đã diễn ra quá trình thị tộc, bộ lạc do chiếm cứ được những điều kiện tự
nhiên cho việc tổ chức đời sống công xã, mà một thực thể cộng đồng tự nhiên
nghiễm nhiên giành được các điều kiện để buộc con người lệ thuộc vào lao động
nô dịch, tức thực hiện hành vi bạo lực. Việc tổ chức lao động cưỡng bức không
hoàn toàn là kết qủa của sản xuất mà là những điều kiện tự nhiên bên ngoài đã
làm hình thành chế độ nô lệ gia trưởng với tính đặc trưng là không có chế độ tư
hữu về ruộng đất, chỉ có hình thức sở hữu cộng đồng, nhà vua chuyên chế được
xem là người cha của các cộng đồng ấy. Về cơ cấu xã hội và đặc điểm cơ bản của
thể chế xã hội là tính chất khép kín mà biểu tượng âm- dương trong nhất thể
thái cực, khó có được một ẩn dụ nào hơn thay thế được!
Tộc trưởng
cai quản mọi người trong họ tại một địa vực nào đó, gọi là hậu – vua một xứ, với ngàn vạn xứ thuở bấy giờ nên kho từ vựng của
Trung Hoa cổ kính đã xuất hiện từ “vạn
bang”. Các hậu cùng nhau chọn ra
một hậu lập làm đế gọi là nguyên hậu. Nguyên hậu sau xưng làm thiên tử, khiến các hậu kia có tên gọi
là chư hầu. Chư
hầu trị nước còn đế trị thiên hạ. Thời Xuân
Thu, nhà Chu giữ ngôi thiên tử đã chia
thiên hạ làm hơn 70 nước để phong cho các công thần và con cháu (trong đó chỉ
riêng họ Cơ chiếm tới 53 nước). Nước lớn (Lỗ, Vệ, Tấn, Tề, Yên…) có diện tích
cỡ như một tỉnh; nước nhỏ cỡ một quận/ huyện như bây giờ. Thiên tử thì kích
thích “thói tham lam biển lận, tính bủn xỉn hèn hạ, nạn ăn cắp của chung làm
của riêng, bạo lực xảo trá và phản bội” để duy trì ngôi thiêng, Đạo Khổng lại
lấy cương thường mà tiết chế nhân dục hòng giữ gìn trật tự cho thiên hạ vững
bền.
Thiên hạ là
tất cả những gì dưới gầm trời do thiên tử trông coi nên thiên tử được coi là Hạ đế. Uy quyền của thiên tử là vô hạn, “Lễ nhạc, chinh phạt thiên tử xuất” (Luận
ngữ, Quý Thị) vì ông chỉ giữ bổn phận với… Trời. Khi dời đô đến đất Ân, Bàn
Canh khuyến thị: “Ta khuyên các ngươi như
vậy vì muốn tiếp nhận sinh mạng của các ngươi mà trời giao cho ta làm cho các
ngươi được tiếp tục sống… Nếu có kẻ nào không biết nghe điều phải, không biết
nghĩ đến điều lợi lâu dài, hoặc không phục tùng mệnh lệnh, gian ngoan dối trá
thì ta sẽ giết chết, tiêu diệt bằng hết mới thôi, để cái xấu không sinh sôi
trên ấp mới” (Thượng thư, Bàn Canh, trung).
Hạ đế thực
hiện chế độ phong hầu kiến địa, phong chức tước, cấp đất đai cho các chư hầu và
ngành nam trong thân tộc; rồi các chư hầu cũng lại làm như thế với đại phu, tạo nên hệ thống ràng buộc nhau
về huyết thống, kinh tế và chính trị. Tính chất này “ẩn náu” trong các biến
thái công xã nông thôn có sự phân biệt đẳng cấp và chế độ nô lệ: các “chủng tộc”
là những tổ chức liên hiệp có tính chất đẳng cấp. Chính trị, do đó, không biểu
hiện công khai như là một hành vi kinh tế mà “đạo mạo” trong tấm hoàng bào đạo
đức, thứ đạo đức chính trị, đức trị, cực kỳ bảo thủ do lâu ngày mà càng trở nên
nặng nề phản động: nó là một thứ tôn ti trật tự khắt khe mà ở đó, trong nhà con
phải phục tùng cha, trong họ thì phận đàn em phải phục tùng trưởng tộc, xã hội
thì dân phải tôn kính vua, còn vua chỉ phục tùng Thượng đế để mãi “nhận dân”
“hưởng dân”, “an ủi dân, vỗ về dân, giúp
đỡ dân, che chở dân, khiến dân tự biết vui về đạo” (Mạnh tử, Đằng Văn Công-thượng).
Vị chủ vũ
trụ cai quản bách thần và vạn vật là một đấng chí nhân “rất mực” thương dân, “Hoàng hỹ Thượng đế, lâm hạ hữu hách, giám
quan tứ phương, cầu dân chi mục” (Kinh Thi). Cho nên, tất cả đều phải sợ
trời và kính trời. Kính trời phải nương theo thời mà ở thuận. Thuận trời hay
hợp đạo là thứ lý luận biện hộ cho sự cai trị và tước đoạt không phải từ phương
diện pháp lý mà là về phương diện đạo đức tôn giáo, Khổng Phu Tử được gọt đẽo
để thành cột trụ tinh thần cho thiết chế chính trị đạo đức này.
Những tư
tưởng chính trị của Khổng Tử, là những tư tưởng về đạo đức người quân tử còn
chưa phát triển mà không thể phát triển, ít nhất suốt 2.500 năm, cho đến ngày
nay vẫn mãi còn như vậy. Đó là một thứ ảo giác trong cơn hấp hối. Nó là những
tư tưởng của chế độ xã hội đang đòi hỏi giải thể chế độ tông pháp nhưng lại
cương quyết từ chối bất cứ sự đổi mới nào trong não trạng: lòng sùng tín, thành
kiến và quá khứ. Những thứ tuy không hề là nhân tố quyết định nhưng người ta đã
làm cho Khổng Tử trở thành bất tử khi giam cầm xã hội phương Đông giãy dụa
trong sự xung đột của lý tính và tình cảm. Giới quý tộc trong tất cả các thời
đại rất biết cách thọ ơn Khổng Khâu, đặc biệt dành cho Mạnh Tử và Đổng Trọng
Thư, những người học trò xuất sắc của đạo Nho đã làm cho thầy mình trở nên hiển
thánh.
Còn gì lý
tưởng hơn đối với tầng lớp thượng lưu về một xã hội yên lắng nép bóng thánh
hiền hợp đạo “yên phận” mà “không nghĩ đến việc tranh thiên chức với trời!”
[3]. Từ
tôtem bộ lạc tiến triển thành tôn giáo tổ tiên với nhất nguyên tối linh thần,
Trung Hoa cổ đại đã sớm hình thành xã tắc vu
giáo – tôn giáo hóa chính trị. Toàn bộ quá trình này được phản ánh vào đời
sống tinh thần làm hình thành ý thức đạo đức chính trị thống trị. Ấy là Khổng
giáo.
Khổng giáo
đã cố gắng gầy dựng một vũ trụ quan đạo lý, biện hộ cho trật tự nhà nước gia
trưởng độc đoán kiểu Phương Đông.
Rất khó để
có thể cưỡng lại cái chủ thuyết rằng, thời đại văn minh ở Trung Hoa được bắt
đầu từ sau Tam Hoàng, Ngũ Đế, tức thời Tam Đại (khoảng từ thế kỷ XXI tr. CN).
Đây là điều rất ý nghĩa. Vì nó là cơ sở để có thể giải thích tư tưởng xã hội về
chính trị từ những quan hệ kinh tế mà chế độ nô lệ mới là cơ sở đầu tiên và duy
nhất. Chỉ khi xã hội tiến đến sự xuất hiện lao động thặng dư, mà lao động thặng
dư thì lại chỉ hình thành khi công cụ bằng sắt trở thành phổ biến, mới là cơ sở
cho sự ra đời của tư tưởng chính trị. Chỉ khi đó, một bộ phận sản phẩm lao động
mới mang lại ý nghĩa không hoàn toàn và tuyệt đối cần thiết cho việc tiêu dùng
ngay đối với người tạo nên nó. Từ đó cho phép phát sinh ra xã hội với các giai
tầng được thụ hưởng mà không phải lao động, trong đó tầng lớp trí thức đảm
trách sứ mệnh bảo hộ về tư tưởng cho hiện trạng này. Để từ đây, kẻ sĩ tiến thân
bằng con đường vua bán tước, tôi bán tài
năng, khúm núm trước ngai vàng, cũng được vua nuông chiều như con hát (Tư
Mã Thiên).
Khó để có
thể tìm thấy được hơn thế một xã hội mà vai trò của kẻ sĩ sớm được đề cao như
trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Những nhà Trung
Quốc học nhân danh khoa học coi Trung Hoa cổ kính là xã hội trọng trí, Nho học coi xã hội của nhà Trung quốc học là xã hội trọng hiền. Cũng khó mà có thể nói khác
khi xã hội nông nghiệp không có nhiều tri thức cần cho sản xuất đến thế. Vậy có
lẽ là các con chữ của Trung Hoa với các biểu tượng chồng lấn lên nhau khiến
việc “điều hành” chúng không ai, ngoài kẻ sĩ. Vai trò của kẻ sĩ sớm biểu thị
vai trò của chân thư lại cho công việc giấy tờ. Công việc quản trị xã hội bộn
bề khiến vua chúa chỉ có thể phải cầu lụy vào sự thông thạo chữ nghĩa. Từ chỗ
chuyên trách về về soạn thảo và đọc hiểu công văn thư tịch, kẻ sĩ là tầng lớp
duy nhất độc quyền về tri thức và truyền bá chúng. Họ đã tận dụng được cơ hội
này để phục vụ chính trị. Họ phải được hoàn toàn nhàn tản, sớm thưởng trà,
khuya thưởng nguyệt… để tận hưởng cái gốc của Nhạc mà “làm cho thôn cùng
xóm vắng không có tiếng oán hận buồn than” (Nguyễn Trãi). Họ làm ra các
huyền thoại để dẫn dắt chúng sinh không nguôi ngoai niềm hi vọng vào các bậc Đế
vương Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, khiến các triều đại chỉ cần dẫn ra được một câu
của vua Nghiêu là thành Đế Nghiêu, một lời của Thuấn mà thành thời Thánh vương!
Triều Hạ
(khoảng thế kỉ XXI-XVI tr. CN), thời Vũ, sự phân hóa tài sản trong nội bộ công
xã thị tộc bộ lạc bắt đầu diễn tiến mà chỉ dấu về nó là uy quyền của thủ lĩnh
thể hiện thế lực của những người giàu có ngày càng trở nên tàn khốc. Tương
tuyền, một lần, Vũ triệu tập các tù trưởng của bộ lạc về họp ở Cối Kê, chỉ vì
đến chậm mà tù trưởng Phòng Phong đã bị Vũ chém chết. Hành động độc đoán này, là một lời tuyên ngôn
không thỏa hiệp với xã hội đại đồng
mà chế độ “thiện nhượng” vang bóng
một thời vẫn đang tiếp tục được truyền tụng như một hành vi chính trị “hợp đạo”
của xã hội thánh hiền.
Vũ chết, các
quý tộc đã phò con của Vũ nối ngôi, nhờ đó mà Khải bấy giờ đã nghiễm nhiên trở
thành một biểu tượng quyền lực hoàn toàn trở nên xa lạ với xã hội thị tộc. Một
thứ quyền lực nghiêng thiên hạ, đến nỗi giới quý tộc, những kẻ “góp gió” cho
Khải tạo dựng nên thứ đạo luật đặc biệt, trong đó giới quý tộc được đặt lên
trên xã hội, khiến cho bọn họ trở thành “đặc
biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm hại”(chữ của L. Morgan), cũng đã
phải cay đắng và ngậm ngùi “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Nó là một thứ thông điệp “di
chúc” về sự chi phối về mặt tài sản của người giàu có ngay cả sau khi người đó
đã quá cố. Sự này chính thức mở ra kỷ nguyên thế tập cha truyền con nối ngang
nhiên được coi là hợp với đạo trời. Từ đây, sự làm gia tăng của cải cá nhân một
cách vô hạn độ bất chấp đạo đức trở thành linh hồn của văn minh Trung Hoa được
Nho gia tận tụy che giấu… Lúc đầu vua Vũ
có tiến cử một đại thần là ông Ích – tể tướng của ông vũ. Nhưng khi ông Vũ chết
thì dân không theo ông Ích mà theo con ông Vũ. Vì hai lẽ, ông Ích mới làm tể
tướng cho ông Vũ được ít năm, thi ân cho dân chưa được lâu, dân chưa tín nhiệm;
ông Khải nổi tiếng là hiền, kế thừa được đạo của cha. (Mạnh Tử, Vạn chương -
thượng, 1). Nghe qua không ai lại nghĩ đã từng có một cuộc trưng cầu dân ý
về vị trí của Ích và Khải giữa thời không có Internet nhưng thiên hạ không thể
không có vua lấy một ngày! Ý dân là ý trời: Thiên tử tự ý nhường ngôi cho con
hay cho người hiền cũng không được mà phải thuận với ý dân, lòng dân bởi chỉ
dân mới có quyền lựa chọn người cai trị mình!
“Phàm việc gì mình không cố ý mà tự nhiên mình làm, đó
là ý trời; mình không mong cầu mà tự nhiên tới, đó là mệnh trời vậy. Các đời
Đường Ngu thì truyền hiền, các đời Hạ, Ân, Chu thì nối ngôi, thậm chí “Vua Trụ
tự tuyệt với trời mà kết oán với dân” nên chỉ “nghe nói giết một kẻ tên là Trụ,
chứ chưa nghe nói giết vua” (Mạnh Tử, Vạn chương-thượng, 1) cũng ý nghĩa như nhau cả! Người nhân danh mệnh Trời để
thảo phạt kẻ có tội phải tin rằng mình thuận theo ý dân, cái ý do Trời đem trao
cho vua – Thiên tử
Đạo trời thì
vẫn thường hằng, nhưng nội dung của nó, “đạo nhân” đã được “biến báo” để thành an phận với nó. Theo đó, mà các tổ chức
chính trị, như bộ máy quan lại, quân đội, nhà tù…, từng bước được hoàn thiện.
Chính quyền khi này, tuy còn giản dị đến mức nào thì nó cũng đã không bỏ qua
việc cơ cấu nên chức vụ Bào chính
trông coi việc dâng tiến thức ăn cho vua. Nó chứng tỏ “việc sử dụng của cải đã rộng rãi, và việc quản lý của cải vì lợi ích
của những kẻ sở hữu đã khéo léo đến mức của cải đó đã thực sự trở thành lực
lượng không sao khống chế nổi” (L. Morgan). Tình hình này đã hoàn toàn đánh
gục lý tính, đẩy trí tuệ của con người rơi vào trạng thái hoang mang và bối rối
trước vật sáng tạo của chính mình.
“Đạo lớn đã mất, thiên hạ thành riêng, người ta chỉ
thân với người thân của mình, chỉ yêu con của mình, của cải là của riêng mình,
cha truyền con nối cho hợp với lễ, lấy thành quách hào ao làm kiên cố, lấy lễ
nghĩa làm kỷ cương để xác định địa vị vua tôi, để giữ đạo cha con, để làm cho
anh em biết kính trên nhường dưới, để cho vợ chồng hòa thuận, để đặt ra các chế
độ, để phân định cương giới ruộng đất, để phát huy tài năng của những người
dũng cảm và những người thông thái, để mưu lợi ích cho riêng mình, do đó mưu mô
được sử dụng và việc binh đao nổi lên” (Lễ kí, Lễ vận,).
Đó là cái
thời kỳ người Trung Hoa hãy còn chưa biết được gì nhiều, ngoài thứ đồng đỏ.
Nông cụ vẫn phải làm từ đá, gỗ, xương, vỏ trai để xới đất, gặt hái, cắt, chặt…
Cho đến thời Thương-Ân và cả Tây Chu, thậm chí còn lấn sang cả thời Xuân Thu đồ
đồng thau vẫn còn rất phổ biến. Đồ sắt cũng đã bắt đầu xuất hiện. Văn tự sớm
nhất đề cập đến “thiết” là phần Tần phong
trong Kinh Thi, bài Tứ thiết có đoạn,
“Bốn con ngựa màu sắt rất béo”. Bài
này tuy được sáng tác vào cuối thời Tây Chu, nhưng cho tới nay đã chưa tìm ra
thêm một cứ liệu nào khác chứng tỏ thời này đã có sắt, mà mãi đến thời Xuân
Thu, tức thời kỳ Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp (770 tr.CN), mới có đủ cơ sở
để đảm bảo chắc chắn rằng đồ sắt, khi này mới được sử dụng đến.
Cho nên, rất
khó để có thể nói rằng sự ra đời chế độ nô lệ Trung Hoa trước thời kỳ đồ sắt
đến 800 năm, tức vào khoảng thế kỷ XVI - XV tr. CN, tự thời nhà Thương-Ân. Thời
ấy, trong bốc từ chưa hề thấy xuất
hiện chữ “thiết” mà cho mãi đến khoảng thế kỷ VII tr. CN, người ta mới thấy lẻ
tẻ xuất hiện chữ này trong một số thư tịch, mà theo Quách Mạt Nhược, nguyên
nhân của sự hùng cường của nước Tề là do việc tìm ra sắt. “Kim loại đẹp [ám chỉ đồng thau] để đúc gươm giáo dùng để chém chó
ngựa, kim loại xấu [ám chỉ sắt] để đúc cuốc dao dùng để xới đất” (Quản Trọng).
Ở nước Tấn (năm 513 tr. CN), nhà nước đã gom được rất nhiều sắt để đúc đỉnh, trên đó khắc “Hình thư” là các điều luật của Phạm Tuyên Tử. Khảo cổ học Trung
Quốc đã phát hiện một vài đồ sắt trong một ngôi mộ ở tỉnh Hồ Nam thuộc đất của
nước Sở, có niên đại cuối thời Xuân Thu. Năm 1950, người ta cũng phát hiện được
ở Hà Nam một ngôi mộ thời Chiến Quốc với khoảng 100 công cụ sản xuất và khoảng
70 binh khí, tất cả đều bằng sắt. Đồng thời, cũng chỉ đến thời kỳ này, người
Trung Quốc mới bắt đầu biết “những súc
vật làm vật hiến tế ở đền miếu có thể dùng trong công việc đồng áng” (Quốc ngữ,
Tấn ngữ).
Nhưng, ngay
từ cuối thời nhà Hạ, xã hội nô lệ đã bắt đầu hình thành: đất đai thuộc sở hữu
của vua, mà vua thì “không tự cày cấy”, nhưng không vì thế mà vua không “có cái
để ăn”. Chứng tỏ dù có thấp kém đến thế nào thì lao động nô lệ cũng đã hoàn
thành: tất cả nô lệ đều phải nộp sản phẩm cho đại phu như là hình thái “con
cháu” hùn hạp nhau tiến dâng lên “phụ mẫu” để hằng năm các chư hầu duy trì chế
độ triều cống, triều hội theo lệnh chinh phạt của thiên tử… Phương thức phân
phối này là hình thái biểu hiện tập trung tình trạng bất bình đẳng trong quan
hệ “vương hữu”(chữ của Trần Đình Hượu)
và tổ chức sản xuất (dưới hình thức gia đình). Nói cách khác, sự khác nhau về
địa vị xã hội giai cấp, bởi việc chiếm hữu các điều kiện phát triển lao động,
được biểu hiện bằng sự khác nhau về phương thức phân phối và quy mô thu nhập
sản phẩm. Thực tế lịch sử này hoàn toàn xác nhận giới quý tộc và tiện dân xuất
hiện không do gì khác mà là kết quả của việc chiếm đoạt những điều kiện phát
triển lao động. Cho nên, thực chất các quan hệ xã hội ở đây, dẫu có ẩn náu trong
những xúc động đạo đức thiêng liêng của dòng huyết tộc cao quý đến thế nào cũng
vẫn là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, tình trạng chiếm đoạt và bị chiếm đoạt
lao động. Lao động là hình thái lao động nô dịch của một giai tầng này đối với
một bộ phận khác: người lao động thì không được hưởng nhưng phải gánh vác tất
cả các nghĩa vụ, kẻ được hưởng thì không lao động song vẫn trọn quyền “mưa móc”
chúng sinh là một thứ điển phạm cao nhất của nhân cách lý tưởng, nội dung cơ
bản của điển lễ nhà Chu. “Cho nên người xưa
có câu rằng: …người lao tâm thì làm việc cai trị, người lao lực thì bị cai trị.
Người bị cai trị thì nuôi người. Người làm việc cai trị thì được người khác
nuôi sống. Đây là đạo lý thông thường trong thiên hạ vậy” (Mạnh Tử, Đằng Văn
Công - thượng).
Quốc gia nô
lệ đã ra đời trong tình trạng lao động thặng dư không hề tương xứng với trình
độ phát triển của công cụ, khiến các nhà
sử học Trung Hoa hiện đại, chẳng hạn Hầu Ngoại Lư, gọi đó là xã hội “tảo thục” (nghĩa tương tự như trái chín
ép). Sản phẩm thặng dư xuất hiện trong hoàn cảnh tuy là đã qua, nhưng chưa xa
với thời kỳ công cụ thô sơ, là nhờ vào hoàng
thổ. Lưu vực sông Hoàng Hà Lục tỉnh
tơi xốp, màu mỡ, khí hậu thời tiết phù hợp với nhiều loại cây trồng nên năng
suất nông nghiệp đã dựa được vào phương thức tổ chức lao động phục dịch trong
các gia tộc, mà thị tộc, bộ lạc là những đơn vị gia tộc, đại gia tộc. Điều này
khiến lao động thặng dư cá thể tuy rất thấp, nhưng cũng đủ khiến cho tệ nạn
rượu chè bê tha trở thành đặc trưng của xã hội biết cách hưởng lạc tự thời
Ân-Thương … Vua Trụ đã biết “lấy rượu làm
hồ”. Các kho lẫm của vua và con cháu vua chứa đầy lương thực, “thóc của cháu vua/ cao như nóc nhà/ kho của
cháu vua/ như gò như núi (Kinh Thi, Tiểu nhã, Phủ điền). Một khi xã hội đã
sa chân vào lối sống hưởng lạc, thì tư tưởng cầu an không thể dung nạp được sự
khoan thư trong cái xã hội nô lệ kiểu gia trưởng mà “người ta ăn hết của dân không từ một thứ gì”(!). Năng suất lao
động nông nghiệp, không do sự phát triển của nông cụ thể hiện năng lực chinh
phục tự nhiên, mà thuần do ưu thế của điều kiện tự nhiên đã thuần phục được
phương thức canh tác. Điều này đã/ chỉ thường xuyên gia tăng sự củng cố cơ cấu
xã hội giai tầng Thiên mệnh: “Ở dưới gầm
trời, đâu cũng đất của vua, khắp trên mặt đất, ai cũng dân vua” (Kinh Thi, Tiểu
Nhã, Bắc Sơn).
Sang thời
Xuân Thu-Chiến Quốc nhờ vào việc sử dụng đồ sắt và sức kéo của gia súc cùng với
hệ thống “dẫn thủy nhập điền” làm cho việc thâm canh được mở rộng khiến năng
suất lao động được cải thiện rõ ràng. Gọi là “cải thiện” bởi việc sử dụng sức
lao động nô lệ đã chưa hoàn toàn chiếm được thái độ trọng thị của các nhà lập
quốc: năm 293, Bạch Khởi (nước Tần) đã cho chém 24 vạn tù binh trong liên quân
Hàn-Ngụy; trong trận Trường Bình, ông này còn ra lệnh chôn sống hơn 40 vạn hàng
binh của nhà Triệu. Đến lúc này thì lao động thặng dư tuy cho phép việc cất trữ
quân lương, tạo cơ hội cho “nhà cầm quyền
đời nay chỉ cần bỏ công sức bằng một nửa người xưa cũng đã đạt thành tựu gấp
đôi người xưa” (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu-thượng, 1) bởi việc duy trì được
những đội quân hùng hậu chuyên dụng cho chiến tranh và phát triển được tầng lớp
trí thức quý tộc chỉ “học tại quan phủ”, được nuôi ăn bằng bổng lộc tùy theo
cách thức và mức độ nương theo quyền lực, được vua rất đỗi yêu chiều. Nhưng
việc lãng phí sức người một cách rùng rợn như vậy chứng tỏ lao động thặng dư
vẫn còn rất thiếu!
(còn tiếp)