“Được sử dụng tài liệu để trả thi” thì không còn yêu cầu gì hơn về kiến thức, dù tài
liệu chỉ là một “phổ” kiến thức tuy hẹp song cũng chấp nhận được cho sự phát huy một / vài kỹ
năng logic cơ bản của người học, là mục tiêu của đề thi. Không có tài liệu nào
cung cấp sẵn một đáp án đúng cho các câu hỏi thi, nhất là thứ tài liệu của chính
người ra đề soạn lại… Tất cả các hành vi sao chép máy móc tài liệu hay từ một “nguồn”
nào đó, từ một bài làm của một ai đó chẳng hạn, đều không hợp với mục tiêu chất
lượng dạy và học thông qua hình thức trả thi.
Khác với
công tác hành chính, đặc biệt là ở cơ sở, nơi các kỹ năng cơ bản hầu như được
mặc định hóa bởi sự bao cấp của tư duy (!), người thừa hành chỉ biết làm theo
đúng lời thủ trưởng dặn dò, trừ khi họ được dặn không được có thái độ bất nhã
với nhân dân!
Tham khảo những
dẫn giải dưới đây, ai thấy mình bị oan sai hãy can đảm đứng ra mà tự bênh vực
mình. “Khiếu nại” về cơ sở đào tạo, Khoa; giảng viên bộ môn sẽ xin phép chấm và
sửa lại kết quả. Hoàn toàn công khai và minh bạch. Kể cả việc cùng sao chép của
nhau mà người thì ít người thì nhiều điểm!
Tại đề thi,
phần cuối đã có lưu ý người trả thi giữ lại để đối chiếu với “đáp án”. Nay để
tiết kiệm không gian tiện cho quan sát, tôi không chép lại đề.
Phần I (đề số
02. K23, TTGDTX Quảng Nam )
Câu 1 (1 điểm): Dựa vào định nghĩa khái niệm nội hàm thì nội hàm số chẵn là tính chất chung của mọi số
chia hết cho 2; còn đường kính là
đường thẳng nối các điểm trên đường tròn qua tâm của đường tròn/ hay còn gọi là
dây cung lớn nhất.
Có bài (07) không
biết dẫn từ đâu ra: tất cả các số chẵn đều chia hết cho 2 thừa số! Thế vậy, số
5 và số 7 là những thừa số của số nào chia hết cho 2?
Ngoại diên
của số chẵn: các số chia hết cho 2/
số chẵn; đường kính/ (tức là) dây
cung lớn nhất.
Câu 2 (1 điểm): Khi định nghĩa khái niệm, hễ vi phạm quy tắc định
nghĩa thì sẽ không giải quyết được nhiệm vụ định nghĩa khái niệm và khi đã
không phân biệt được sự vật cần định nghĩa bằng dấu hiệu bản chất của nó (tức
giải quyết nhiệm vụ khi định nghĩa) thì định nghĩa có còn là một định nghĩa
tuân thủ các quy tắc của nó nữa không?
Ví dụ, 2a, nếu
lấy cái đã biết (câu 1 trên đây) để biết cái chưa, thì ai không nhận ra định
nghĩa này đã vi phạm quy tắc cân đối/ định nghĩa quá rộng, đó là người… không
chịu biết (!). Còn điểm 2b, “tứ giác có các đường chéo cắt nhau tại điểm giữa
chia đôi mỗi chúng” đâu phải chỉ mỗi hình vuông!
Bài có số 06
viết: Đường kính là đường chéo cắt nhau tại điểm giữa chia đôi mỗi chúng (!);
và hình vuông là các đường thẳng nối các điểm giữa lại với nhau!
Câu 3 (2 điểm): Có nói rằng cấu tạo của nó gồm ba hoặc bốn bộ phận cũng được, vấn đề là
chức năng của mỗi bộ phận ấy. Nếu chỉ vậy thì tài liệu, có chưa hoàn chỉnh thì
cũng đã khá đầy đủ rồi (còn dùng từ hoặc…
là ý muốn chỉ rằng lượng từ không
phải ở phán đoán nào cũng được thể hiện trực tiếp, thường chỉ có ở phán đoán
riêng, nhằm lưu ý mặt lượng của phán đoán/ ngoại diên của chủ từ).
Thế nào là
và khi nào thì… Thế nào là một thuật
ngữ chu diên/ không chu diên? Thế thì, khi
nào thì thuật ngữ ấy sẽ/ được như thế, tức chu diên/ không chu diên?
Điều này
thường xuyên được nhấn mạnh trong suốt quá trình thực hiện bài giảng… Rất nhiều
bài thi đã chép lại y nguyên trong tập đề cương… với tới hai trang “lải nhải”
như người thợ giảng logic học (!). Không ra thế nào! Đề ra nhằm lưu ý có tính
cảnh báo việc nắm kiến thức để vận dụng vào những nội dung sau. Còn thì nó đã sẵn
sàng trong tài liệu, can cớ gì lại đi giảng giải lại cho người đang thực hiện
nhiệm vụ đánh giá/ kiểm định chất lượng học tập môn học. Nếu có khả năng tốt
hơn thì đành một nhẽ, đằng này buộc người chấm ngồi dò lại xem chữ viết của
người sao chép có bị mất nét không!… Qua đây chứng tỏ người trả thi đã không
đến lớp thì thôi, lại còn cũng không xem lại bài qua tài liệu. Qua quýt thôi
cũng được! Vì chỉ chép đúng chỗ với khoảng 4-5 dòng A4 là đủ rồi. Rốt cuộc, thì
cũng chỉ sao chép của nhau từ một nguồn, tức từ một người chép lại tài liệu
nhưng không đúng địa chỉ. Tâm lý dựa dẫm trong sự học hành của đào tạo không chính quy vẫn quá nặng nề.
Không nên cứ tiếp tục coi thường hậu quả cực kỳ nguy hiểm của nó!
Câu 4 (2 điểm): Nghĩa là, xem xét xem luận ba đoạn tỉnh lược này có
hợp logic không.
− Luận hai
đoạn đã nêu rõ tiền đề (sau bởi vì). Phán đoán còn lại là kết luận.
+ Căn cứ vào
kết luận (với thuật ngữ làm chủ ngữ hoặc vị ngữ) thì bộ phận bị lược bỏ là tiền
đề nhỏ;
+ Tiền đề
này sẽ bao gồm các thuật ngữ: 1/ kim loại; 2/ vàng. Sắp xếp theo trình tự: chủ
ngữ - vàng; vị ngữ - kim loại với mệnh đề không thể là mệnh đề phủ định [có
những kim loại không bị han gỉ! Vì sao? Chứng tỏ, vàng là kim loại thì mới có
kết luận như thế chứ không thể khác (!)].
− Luận ba
đoạn đầy đủ… Nhận xét… Loại hình luận ba đoạn? Phương thức đúng? Kiểm tra bằng
sơ đồ Venn hoặc trình bày bằng lược đồ, phương thức EAO.
Câu 5 (2 điểm): Cấu tạo của suy luận gồm tiền đề, kết luận và lập
luận. Thế thì lập luận thế nào để suy luận kia hợp hay không hợp logic. Đó là
yêu cầu của đề ra.
+ Tiền đề
lớn M chu diên/ chủ ngữ của phán đoán chung; P không chu diên/…
+ Tiền đề
nhỏ ngoại diên cả hai thuật ngữ bị loại khỏi nhau. Vì…
+ Khi loại
ngoại diên của S khỏi M, sẽ xảy ra 2 trường hợp: S vừa nằm trong P vừa nằm
ngoài P. Do đó, kết luận S e P không là kết luận duy nhất và tất yếu suy ra từ
các tiền đề, khiến thuật ngữ không chu diên trong tiền đề trở thành thuật ngữ
chu diên trong kết luận.
+ Suy luận
theo loại hình luận ba đoạn 1 với tiền đề nhỏ phủ định.
Có thể trần
thuật theo lối mô tả dựa vào sơ đồ Venn (xem ví dụ minh họa cho quy tắc 3, quy
tắc thuật ngữ).
Câu 6 (2 điểm): Cách mô tả tương tự như câu 5 trên đây với loại hình luận
ba đoạn 3, phương thức AAI. Kết luận là, một
số cây lâu năm chỉ ra hoa một lần. Suy luận này được sử dụng nhiều cho việc
minh họa các quy tắc thuật ngữ, quy tắc tiền đề, quy tắc loại hình và cả về
tính chu diên cũng như sơ đồ, lược đồ… trong luận ba đoạn. Ai gặp khó khăn vui
lòng xem lại phần ghi chép của cá nhân.
Phần II (đề
số 02. K23, TTGDTX Bình Định)
Câu 1 (1 điểm): Tương tự như câu 1, phần I, trên kia.
Câu 2 (1 điểm): Dựa vào nhiệm
vụ thì khỏi quy tắc và ngược lại. Dựa vào cả hai thì tốt quá… Nhưng căn cứ vào
cách diễn đạt trong đề ra thì “hoặc” theo nghĩa tuyệt đối phân liệt, hơn nữa nó
lại nằm trong “ngoặc đơn” thì chẳng nên “dại” gì mà “ôm rơm rặm bụng”. Cứ mạnh
về thứ nào thì vận dụng thứ đó!
2a)
Tứ giác có các góc bằng nhau và các cạnh bằng nhau, thì đến cả người thong manh
cũng không bảo nó là hình chữ nhật. Như thế thì định nghĩa đâu đã phân biệt
được hình chữ nhật với hình vuông bằng dấu hiệu vốn có của hình chữ nhật! Người
thì bảo định nghĩa quá rộng, kẻ thì tuyên truyền rằng định nghĩa quá hẹp. Có
người thì lại quả quyết rằng định nghĩa “rất đúng”. Và cũng không hề giải thích
nó rộng/ hẹp/ đúng đắn hay sáng tạo ở… điểm nào!
2b)
Định nghĩa này dẫn ra từ SGK GDCD 12 tr. 21… thì không thể bảo nó sai là nó…
sai được! Thế mà cả trăm nhà “Quản lý NN” đều nhất tề tuyên chiến với thuật ngữ
pháp luật phổ thông này. Rằng, định nghĩa thừa thãi, không rõ, lòng vòng… bởi
từ... “hành vi vi phạm pháp luật” lặp lại hai lần (!). Có thể ty tỷ điều ta
không biết, nhưng không tạo lập được thói quen đọc sách, học bài, suy nghĩ độc
lập,… thì không thể tham dự vào công tác quản lý nhà nước đang thời kỳ cải cách
hành chính được.
Câu 3 (2 điểm): Câu này thì vẫn… thế
nào là/ và khi nào thì... Vậy nên
tham khảo câu 3 phần I, trên kia! Ví dụ dẫn ra cái thì minh họa cho thuật ngữ
chu diên (tiện nhất là lấy phán đoán phủ
định chung; S+ e P+); cái thì minh họa cho trường hợp
đối lập cả về số và chất lượng, tức khi nó thế nào sẽ không chu diên (nên chăng
dẫn ra phán đoán khẳng định riêng, S-
i P-, để tiện minh họa!).
Câu 4 (2 điểm): Tham khảo câu 4/ câu 5 trên kia (phần I). Chỉ có vài
người “chê” còn đa số thì vẫn kiểu tỏ ra:
ta (M) là đúng (P),
còn người khác (S) không phải là ta (M), thì người ấy (S)
“chỉ có từ sai trở lên” (P).
Thôi thì cũng được đi (!). Nhưng cũng phải cắt nghĩa thế nào để kẻ có tâm lý
phản biện“khẩu phục”, còn tâm nó không phục thì đã có quyền lực!
Thử tham mưu
cho lãnh đạo như thế này có được không: “Thưa
ông Chủ tịch, ông nói tất cả công dân xã/ phường ta (M) đều có nghĩa vụ phải
tuân thủ chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước (P), mà anh này
(S) thì lại không phải là công dân xã/ phường chúng ta (M). Do đó, chúng ta
buộc anh ta (S) phải chịu trách nhiệm pháp lý (P) trước việc anh ta kinh doanh
ở xã/ phường ta là sai đấy.”
Câu 5 (2 điểm): Thoạt nhìn, mà chưa cần phải áp các kí hiệu S, P, M
vào các thuật ngữ, đã thấy ngay rằng, suy luận này theo loại hình luận ba đoạn
3, phương thức AII. Kết luận sẽ là: Một
vài loài có độc là thực vật. Thế mà chỉ một người duy nhất kết luận như
vậy. Còn lại thì đa số chép lại từ tài liệu… Nhưng đấy lại nơi phân tích và
minh họa cho suy luận nhầm tưởng kết luận rút ra từ hai tiền đề đều là những
phán đoán riêng. Nếu gọi đây là thói quen “đạo văn” của trí thức, thì e chưa
đúng hoàn cảnh!
Nào thì mô
tả (... với các đường tròn biểu thị ngoại diên của các thuật ngữ).
Tiền đề lớn:
Toàn bộ ngoại diên thuật ngữ loài nấm (M) nằm trong ngoại diên thuật ngữ thực vật (P);
Tiền đề nhỏ:
một phần ngoại diên thuật ngữ loài nấm nằm trong ngoại diên thuật ngữ chất độc (S).
Do đó, một phần ngoại diên
thuật ngữ chất độc (S) theo ngoại diên thuật ngữ loài nấm(M) vào trong ngoại
diên thuật ngữ thực vật(P): Một vài loài có độc là thực vật (S i P).
Loại hình
luận ba đoạn 3, còn có phương thức IAI nên, ai người kết luận: Một vài loài thực
vật có chất độc cũng đúng, thậm chí là một sự lanh lợi, nếu còn dè dặt
với tổ hợp từ sáng tạo, khi có cách
lập luận, với thực vật làm thuật ngữ
nhỏ (S).
Câu 6 (2 điểm): Theo yêu cầu của đề thì chỉ cần mô tả bằng sơ đồ Venn
đối với các lược đồ có kết luận.
a) S i P; 4,
AAI.
b) Không; 1,
với tiền đề nhỏ phủ định.
c) Không; 3,
với tiền đề nhỏ phủ định.
d) S i P; 3,
IAI.
e) S e P; 2,
AEE.
Nhìn chung,
chất lượng bài làm thấp; tâm lý cầu may, máy móc, giáo điều rất nặng nề. Lười
biếng và cẩu thả cũng được hằn rõ sự… “tránh
việc quan đi ở chùa”.
Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét
mắt đâu mình chi ai