1. Khi phát
minh ra lý thuyết kết cấu hợp chất hữu cơ đa phân tử và kết quả tổng hợp các
chất hữu cơ từ các chất vô cơ với việc coi kết cấu ấy là “những phương thức kết
hợp lại với nhau các nguyên tử” (1861), A. M. Boutlerov (1828-1886) đã góp phần
quyết định nhất cho sự hình thành quan niệm vũ trụ là một hệ thống, mặc dầu
trước đó khái niệm kết cấu đã có lịch sử lâu đời và khoa học cũng đã thực sự
bắt đầu với khái niệm này ở thế kỷ XVIII, là lúc thực vật học định nghĩa kết
cấu là sự tổ hợp và phối hợp các khí quan thực vật.
Người đưa
khái niệm kết cấu vào kinh tế chính trị học là Karl Marx: “Toàn bộ các quan hệ
sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của xã hội” và gọi ấy là cơ sở hạ tầng với
nghĩa nó là cái hiện thực mà từ đó nảy sinh ra các quan hệ tư tưởng để rồi cùng
với các quan hệ ấy, hợp thành kết cấu xã hội.
Từ nhu cầu
khám phá và mô tả kết quả tìm kiếm các mối liên hệ phổ biến của hệ thống mà đã
xuất hiện khái niệm kết cấu. Đến lượt nó, “kết cấu” trở thành công cụ để mô tả
cấu trúc của hệ thống, mà từ đây hình thành nên quan niệm toàn vũ trụ, giới tự
nhiên là một hệ thống có cấu trúc rất phức tạp với vô vàn tiểu hệ và chi chít
những tầng nấc, thang bậc các mức độ tổ chức cấu trúc với tính cách cũng chỉ là
những yếu tố. Và, với việc sử dụng các thông số trạng thái và những quan hệ
tương tác của các yếu tố để mô tả hoạt động của hệ thống mà các khái niệm không
gian, thời gian cùng với thông tin của hệ thống trở nên cụ thể hơn rất nhiều...
Tất cả các
hiện tượng tự nhiên, kể cả các quy luật mà tự nhiên học mô tả đều là sản phẩm
của nhà quan sát với ngụ ý nó là các mức độ “lăng kính” của nhà khoa học. Ngụ ý
ấy khiến mọi tri thức chỉ là sự hình dung của con người ta về thực tại, dẫu có
tiến dần đến thực tại mức nào thì cũng luôn là gần đúng. Sự thành công của khoa
học là ở sự khám phá ra tính gần đúng, bởi các hiện tượng tự nhiên là tương
thích với nhau liên hệ lẫn nhau mà sự hiểu biết về đối tượng này chỉ có thể khi
vận dụng được mọi hiểu biết về những đối tượng khác.
Suy nghĩ là
một sự vận dụng trí nhớ. Trí nhớ là sự lưu giữ quá khứ nhằm so sánh với hiện
tại, do đó không có trí nhớ sẽ không có đời sống trí tuệ. Thế nên, điều kiện
tiên quyết cần thiết của tư tưởng bao giờ cũng là một sự cảm nhận được tọa độ
thời gian. Tuy việc giải thích cho một cái này cần phải có sự hiểu biết tường
tận về tất cả những cái khác là điều không thể, nhưng hoàn toàn có thể và cần
phải bằng lòng với một sự hiểu biết gần đúng thì mới có thể mô tả cả một nhóm
hiện tượng được nhà quan sát chọn lựa. Làm như vậy chắc chắn là có sai sót, bởi
gần đúng là một sự phiến diện. Nhưng những sai sót xảy ra trong sự gần đúng
thường rất nhỏ để cách tiếp cận đối tượng theo kiểu đó có ý nghĩa. Thời khắc
mặt trời mọc lên tại mỗi chỗ chúng ta quan sát cách nhau cả trăm, thậm chí cả
ngàn cây số không thể bảo là không như nhau! Với Newton điều thứ này thuộc về
“tiên thiên” (Kant), với Einstein mâu thuẫn logic của khái niệm “chiếm vị trí
khác nhau trong cùng một lúc” là bởi nó “tự ý” bỏ qua sự truyền dẫn tín hiệu
ánh sáng có một vận tốc nhất định… Người có quan điểm toán học chặt chẽ, chắc
chắn sẽ cảm thấy khó chịu khi nghĩ rằng tính tương đối không phải là chủ quan
trước phát biểu của Einstein: một cái gì đó là hoàn toàn phụ thuộc vào điểm
quan sát. Không gian và thời gian không là tuyệt đối và tách biệt. Không hề có
cái gọi là điểm quan sát được ưu tiên vì không có hệ quy chiếu quán tính tuyệt
đối tĩnh. Các quy tắc nhân quả của thế kỷ XIX sẽ là ảo trong những hoàn cảnh
tương đối tính nhất định. Khoảnh khắc hiện tại mang tính phổ quát là không có
tính khách quan vì không một quan sát về thực tại nào mà không tùy thuộc vào
người quan sát.
Mấy hôm này,
người ta đang rộ lên tin về việc lắp đặt camera tại các phòng xử án với nghĩa
“mới mẻ” của cải cách tư pháp: mọi phiên xử án đều đặt dưới sự quan sát ưu
tiên, tức Thẩm phán và Hội đồng xét xử sẽ hoạt động trong sự giám sát tuyệt đối
của “thượng cấp”: các Chánh án, Viện trưởng VKS, các ban ngành Cải cách tư
pháp, Nội chính… với nghĩa nhằm đảm bảo tính khách quan trong xét xử.
Tính chủ
quan là nguồn cảm hứng của mọi môn nghệ thuật. Nghệ thuật là quy luật của sáng
tạo. Sáng tạo trước hết là một quan hệ thẩm mỹ. Tước bỏ tính chất chủ quan
trong tất các quan hệ xét xử khiến luật pháp chỉ còn là một bộ mặt sắt xi, lạnh
lùng và khô khốc. Phải chăng thứ quyền được “suy đoán vộ tội” đối với bị cáo chỉ
là món đồ dùng khi cần trang trang sức cho giới luật sư!
Có một chàng
trai tầm đạo Sudhada được mô tả trong Kinh Hoa nghiêm, với một chứng nghiệm
siêu hình về vũ trụ, như một mạng lưới hoàn hảo những mối tương quan giữa cái
một và tất cả…
“Cung điện
bao la như bầu trời. Sàn nền được lót bằng vô số và đủ loại hạt minh châu.
Không nơi nào trong cung trời lại không có vô số tháp, các cửa đi lớn nhỏ với
chằng chịt các lối vào, những hành lang dài hun hút và những lan can, các ô cửa
trông ra những ban công…, mà tất cả đều được ken dày bởi bảy loại hạt minh châu
lộng lẫy…
Mọi nơi
trong nội cung đều được trang hoàng với hàng trăm ngàn tháp. Mỗi tháp cũng được
trang hoàng lộng lẫy như cung và cũng bao la không thua kém bầu trời. Những
tháp ngà ở đây là vô lượng nhưng không tháp nào lại làm trở ngại của nhau. Mỗi
tháp là đơn nhất trong sự hòa hợp tuyệt đối với những tòa tháp bên ngoài; vừa
cá thể lại vừa toàn thể mà tháp này thâm nhập và bao hàm tháp kia. Đó là một
hiện trạng toàn hảo của sự trộn lẫn và trật tự. Thiện Tài (Sudhada) như thấy
mình đang trong tất cả cũng như trong mỗi một tòa tháp. Tất cả chứa trong mỗi
một và mỗi một chứa cùng tất cả”1.
Khó để có
thể tìm ra một ẩn dụ hiệu quả hơn cho việc gợi tả Vũ trụ được Nhà Phật hình
dung như một kết cấu.
Khái niệm
kết cấu chỉ sự tổng hòa các quan hệ tương tác giữa các yếu tố tạo nên hệ thống
và được biểu hiện thành các hình thức tổ chức, phương thức hoặc trật tự liên hệ
bên trong hệ thống làm thành một chỉnh thể thống nhất ở một chức năng nhất định
với các tính chất, năng lực và hiệu quả tác dụng của hệ thống trong tương tác
với môi trường.
Chức năng
của hệ thống được hiểu như những tính chất, những năng lực và hiệu quả tác
dụng, biểu hiện trong tương tác và được con người phát triển. Chẳng hạn,
Archimedes do nhỡ một lần tự đánh “rơi” bản thân mình xuống nước, ông đã nhanh
chóng mà nhận ra điều mình bị nước “từ chối”. Cũng tương tự như vậy với hòn đá
ném xuống mặt hồ Leonardo lại ngoại suy ra “âm thanh cũng lan tỏa thành các
vòng tròn trong không khí” tựa hồ như các hiệu ứng trên mặt nước, ví dụ, đối
với ngư ông lúc buông câu! Dường như, tất cả đều phải xảy ra những điều tương
tự như vậy; “Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá/ Rừng tiếc chim về ngại phát
cây” (Ức Trai). Không như thế, hẳn sẽ chẳng ai bỏ tiền ra mua tấm vé vào sân
vận động hoặc hàng giờ liền trước màn hình tivi cốt chỉ để chiêm ngưỡng trọn
vẹn một trận túc cầu.
Vậy
là giữa kết cấu hay không gian và
công năng hay thời gian luôn tồn tại
những mối liên hệ không thể chia chẻ. Những liên hệ này biểu hiện thành quan hệ
trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin (trình độ tổ chức…) giữa hệ thống và
môi trường. Minh họa nhanh cho điều này, xin phép được dựa vào lời một nhà
chuyên môn (nguồn dẫn xin xem chú thích).
“… Với hình thức làm
tượng đài ngày càng phóng to về quy mô, bảo thủ về hình thức và kỹ thuật, tiêu
tốn ngày càng nhiều tiền mà lại lồng ghép nhiều công năng trái chiều... thì đó
sẽ là một sự thất bại về mặt nghệ thuật của VN (Việt Nam , tg). Tượng mẹ VN (tượng Mẹ
Việt Nam Anh hùng, tg) là ví dụ chung cho sự thất bại này”2.
Trao đổi vật chất là
phương thức biểu hiện phổ biến của quan hệ, quan hệ không gian - đặc trưng cho sự cùng tồn tại. Tồn tại chỉ có
thể là cùng tồn tại.
Thoạt nhìn thì mệnh đề
như là luẩn quẩn… Chỉ không luẩn quẩn khi “tôi nghe” tức là phải có người nói
và “tôi nói” hẳn hàm ý là có người nghe. Chỉ có thế này thì là chiếc thẻ nhớ còn khi chỉ thế kia thì hẳn phải
gọi là chiếc… loa phường! Khi giả sử
chỉ có trạng thái này hoặc trạng thái kia thì đó là một sự trừu tượng lý tưởng.
Sự ấy chỉ dùng cho trường hợp để chỉ về một trạng thái trong tự nhiên khi hệ
thống trở thành hệ thống cô lập hoặc đóng kín. Lúc đó hệ thống không có hoặc
có, mà cũng như không: sự trao đổi năng lượng nhưng chỉ với một lượng quá nhỏ.
Khi một hệ
thống lâm vào trạng thái cô lập hoặc đóng kín thì nhiệt lượng tiêu thụ tăng lên
khiến cho sự vận động vật chất không được bảo toàn về số. Cơ nhiệt học gọi ấy là
hiện tượng hao tán. Sự hao tán sẽ làm cho vận động từ trật tự sang hỗn loạn.
Trạng thái này càng được duy trì, nghĩa là vận động càng trở nên hỗn loạn thì
entropy sẽ đạt tới cực đại, hệ thống sẽ ly bì trong trạng thái chết chóc. Với
hệ thống mở, vật chất và năng lượng luôn được thu nạp từ bên ngoài hệ thống,
trong điều kiện nào đó sự vận động từ hỗn độn sẽ dần chuyển sang hoạt động có
trật tự. Việc chịu ảnh hưởng của các thông số bên ngoài, với sự phối hợp của
các hệ thống con bên trong sẽ tạo nên những trật tự thời gian. Không có như
thế, không gian sẽ trở thành trừu tượng trống rỗng.
Không gian
trống rỗng, thứ không gian tuyệt đối là khoảng không trong đó không có sự cùng
tồn tại của các hệ thống. Điều này là có thể chịu đựng nổi nhưng chỉ đối với
vật lý học cổ điển... Cho nên tồn tại là cùng tồn tại là nói phương diện không
gian. Vì thế, với mỗi hệ thống, kết cấu là căn cứ bên trong của chức năng hay
công dụng. Công năng là biểu hiện ra bên ngoài của kết cấu. Chức năng cầm nắm của bàn tay thể hiện thành
các phẩm chất khéo léo ở mỗi người thợ, ở khả năng chế tác công cụ cũng như khả
năng phát huy tác dụng của công cụ được kế thừa từ các thế hệ đi trước để lại.
Trong hệ thống sinh quyển mỗi loài sẽ là nguồn thức ăn của mỗi loài… Chưa nhận
ra điều này, hãy nên giả định mắt xích thức ăn này bị đứt gãy. Làm vậy còn để
thấy tự nhiên luôn luôn xinh đẹp ngay cả khi nó sản sinh ra những quái thú (K. Marx).
Vật chất và
bất động, bây giờ mới là lúc thành điều không thể quan niệm được. Tồn tại không
phải là cái này, cái kia mà là quá trình,
quá trình phức tạp hóa các mức độ tổ chức cấu trúc của khách thể từ hệ thống
thấp, giản đơn lên mức độ tổ chức cấu trúc hệ thống cao, tinh vi, phức tạp theo
hướng tăng cường chức năng của hệ thống. Chức năng ấy biểu hiện tập trung ở
năng lực tự điều chỉnh để duy trì tốt nhất sự tồn tại của mình. Thuyết cấu
trúc-chức năng của Lamarck là cơ sở để hiểu được thuyết giá trị tự nhiên của
Hlomes Rolston: giá trị của vật tự nhiên tỷ lệ thuận với mức độ trật tự của nó.
Còn trật tự là loại khái niệm dương chỉ trạng thái có tổ chức có kỷ luật, kỷ
cương hướng đến “một kết cục ngày càng tận thiện, tận mỹ và hạnh phúc tới cực
độ” (chữ của nhà triết học, xã hội học Anh quốc, H. Spinsai).
Hiện thực
chỉ là một chứng tỏ giá trị, lợi ích của chỉnh thể luôn lớn hơn và lớn nhất giá
trị của thành phần. Do vậy, để thực hiện giá trị hay lợi ích mà cao nhất là
thực tại/ tồn tại thực sự, mỗi “yếu tố” phải tham gia vào các mối liên hệ hình thành
hệ thống, khi đó yếu tố phải biết “tiêu biến” thuộc tính cá biệt của mình để
tạo thành chất của hệ thống, chỉ khi chỉnh thể phân giải thì các bộ phận riêng
rẽ mới tự động khôi phục chất cá biệt ban đầu. Vì vậy, khi nhìn vào mỗi yếu tố,
người ta không tìm ra được tính đặc trưng của chỉnh thể thì điều ấy có nghĩa là
chỉnh thể đã phân rã tự bao giờ… Đương nhiên, đây là một “kinh nghiệm” phổ quát
của toàn thể tự nhiên với tính cách là một chỉnh thể hữu cơ mà việc xem xét
chất lượng của từng yếu tố chỉ thực hiện khi sử dụng phương pháp phân tích trong
quá trình quan sát. Vì vậy khi đem điều này áp vào đời sống cộng đồng tình hình
sẽ có khác trừ khi các công dân có cùng chung giá trị được ấn định bởi quyền
lực.
Trong thiết
chế chuyên chế, ai cùng tha thiết với việc tạo dựng nên sự thịnh vượng chung sẽ
trở thành kẻ bất trị, còn kẻ co mình sống ích kỷ, bằng cách thay đổi nghĩa tự
nhiên của ngôn từ, được “coi như là công dân gương mẫu”. Chức năng xã hội của
cá nhân không phải từ sự tương tác giữa nó với môi trường mà do nhà cầm quyền
quy định. Căn cứ vào những “bút phê” trong lý lịch mà cá nhân ắt phải được sử
dụng vào việc gì. Khách thể của quyền lực được định đoạt bởi chủ thể. Tuy không
trái với nhận thức luận chung về tương quan giữa chủ thể và khách thể nhưng lại
chỉ phù hợp với những thiết chế không có tác dụng chống độc tài! Những tật xấu
như thói tham lam biển lận, tính bủn xỉn hèn hạ, tệ ăn cắp của chung, vô cảm,
bạo lực, phản bội… được quyền bình đẳng ưu ái cho mà luôn có được khuynh hướng bảo toàn, tức không bị hao
tán!
Sự bình đẳng
đặt con người ta đồng đẳng bên cạnh nhau mà không có mối liên hệ chung nào giữ
họ lại trong một không gian sinh tồn tập thể. Nền chuyên chế dựng lên những
barie giữa những con người lấy sự dửng dưng làm thành thứ đức hạnh chung, sự
bình đẳng bổ sung cho cá thể khỏi phải chịu trách nhiệm gì với đồng loại.
Trong một
thiết chế tự do, các chức vụ công cộng vốn do bầu cử. Chế độ bầu cử tự do khiến
cá nhân biết cách lo lắng đến lợi ích cá nhân là ở sự biết xấu hổ mà quên đi
cuộc sống ích kỷ để không tự rơi vào sự ghẻ lạnh với những cuộc đời chung
quanh. Đối lập lại, nó sẽ nại ra đủ thứ lý lẽ chống lưng cho những thứ mà nó
dường như không cố tình, ví dụ như cái gọi là “trải thảm đỏ” hay “đúng quy
trình”.
“Trải thảm
đỏ” với “đúng quy trình” là thứ phản ánh hệ quy chiếu quán tính từ bên ngoài
(không gian) và từ quá khứ (thời gian) đối với sự kiện quan sát. “Từ nay trở về
sau, không gian đứng một mình và thời gian đứng một mình sẽ phải chịu số phận
mờ dần đi để trở thành hai cái bóng mờ nhạt, và chỉ một sự thống nhất giữa không
gian và thời gian mới duy trì được một thực tại độc lập” (Minkowski).
(Còn nữa)
---------------------------------------
1 D.T. Suzuki, phỏng theo Fritjof Cara, Đạo của vật lý.
nxb Trẻ, 2004, 348.