Thứ Năm, 1 tháng 9, 2016

“Hung tin”: Tẩy chay Viện Khổng Tử

Nho giáo sinh ra từ một xã hội theo thể chế nhà nước tông pháp đang trên bước cùng của sự suy vong và tan rã nghiêm trọng. Khổng Tử, người khởi xướng giáo phái này chỉ vì luyến tiếc cái đáng phải bị thay thế đã cố sức cổ xúy nó bằng việc ỷ y vào đạo đức “hiếu từ” mà trở nên cột trụ tinh thần của xã hội chuyên chế Phương Đông. Đạo đức chính trị Nho gia khiên cưỡng về nội dung, rối rắm về hình thức, cốt biện bác cho sự ngu trung. Điều này tuy đã đưa được triết học Nho gia lên địa vị triết học nhà nước nhưng cũng khiến cha đẻ thứ triết học đạo đức ấy chuốc lấy thân phận “chó nhà tang”.

Vị sư tổ của học phái Nho thuật từng chu du khắp thiên hạ chỉ là để cầu ra xuất chính, đem tài trí và đức độ cá nhân giúp vào việc đời. Nhưng để được các thủ lĩnh chính trị khi ấy tin dùng thì ông đã rất ngần ngại trong việc vứt bỏ đi cái sở học của mình mà làm người “anh phải nghe ta”, tức tôi tớ cho chính quyền, nên đã rơi vào bi kịch. Bi kịch Khổng Tử là hồi chuông cảnh báo cho những kẻ sĩ nuôi chí quân tử. Rốt cuộc cũng chẳng cảnh tỉnh được mấy ai. Bọn hủ nho được triều chính mọi thời cưng chiều như con hát chỉ ngày một đông lên nghìn nghịt!
Kinh nghiệm cá nhân Khổng Tử chỉ có thể hoặc học thức hoặc “nô tài”. Và nếu “Bất sĩ vô nghĩa… quân tử chi sĩ dã, hành kỷ nghĩa dã/ Không ra làm quan là vô nghĩa… người quân tử ra làm quan là làm việc nghĩa vậy” (Luận ngữ. Tử Lộ.) mà “Đời có đạo thì ra làm mọi việc, đời không có đạo thì ẩn mình để sửa mình chờ thời/ Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ (Mạnh Tử); “Nước có đạo mà mình nghèo và hèn là xấu hổ; nước không có đạo mà mình giàu và sang là xấu hổ” (Khổng Tử), thì từ cổ chí kim hẳn đã được mấy ai?
Trước Don Quixote, không ai khác, người đó là Khổng Tử. Có một vị giáo sư ở Đại học Bắc Kinh là Lý Linh đã dùng các chữ “chó nhà tang” để chỉ về thân phận Khổng Tử bởi sinh thời Khổng Tử tuy không cầu cạnh mà chỉ ao ước lấy một chức quan để được ngồi vào hàng ghế “đại phu”! 
Thế đấy, việc chính sự với sở học (Nho thuật) của cá nhân thuận theo nguyên lý âm dương (?!).
Nho là từ ghép bởi nhân/ người, và nhu/ cần dùng, để chỉ thứ hạng người cần phải được trọng dụng nếu không muốn đời sống xã hội dấn sâu vào vô đạo. Nhu còn hàm ý chờ/ đợi. Theo nghĩa này thì kẻ có học phải biết đợi thời mà được vời ra giúp đời. Từ các nghĩa chiết tự ấy thì đời vốn dĩ vô đạo. Không vô đạo sao được khi Đức Phật tổ phải từ bỏ “vương miện”, thứ dục tuyệt cao, để nêu gương bác ái! Cũng vì “vô đạo” nên mới phải “hữu đạo”: “Bất sĩ vô nghĩa”! 
Chữ “quân tử” dùng để chỉ thứ bậc xã hội thuộc bề trên/ con vua, tức người có địa vị xã hội, bên trên đám tiện dân! Giai tầng này chỉ chịu sự tiết chế của “điển Lễ” chứ “hình phạt không tới hàng đại phu”(!) vì bổn phận của nó là làm việc nghĩa: “hiếu với vua tức là trung”. Hai thứ đạo đức Lễ chế và Pháp chế là biểu hiện của “hữu đạo” và “vô đạo” trên lập trường Nho giáo.
Thực tế vẫn còn đang tiếp diễn theo chiều hướng sâu sắc sự rất “đáng xấu hổ” khi “Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập” (Mác-Ăng ghen, Gia đình thần thánh).  
“Chính giả chính dã / Chính trị là làm cho chính đáng”... chỉ làm những việc đáng làm!