…
Nén lại tất cả các chiều không-thời gian trong một bài thơ vỏn vẹn hai mươi tám chữ, thì duy chỉ thơ tứ tuyệt mới có thể làm! Không nhẽ lại còn đi tìm định nghĩa cho nghệ thuật ẩn dụ như là phương thức chuyển nghĩa của từ nếu Tiếng reo còn có thể đem lại được điều gì khác ngoài tất cả các âm thanh đều được hợp nhất trong tiếng vang của nghĩa. Và khi người ta chỉ có thể đọc lên cái còn ẩn giấu sau tất cả những cái nói ra thì việc đi tìm ẩn ngữ trong Tiếng reo sẽ là diễn tiến của một giấc mơ bừng tỉnh. Tư duy thơ tiến triển liền mạch từ quá khứ như là ngữ pháp của giấc mơ về huyễn tưởng bonsai. Nghệ thuật truyền thống trong đó người nghệ sỹ không hề ký tên và đề ngày tháng ở một góc nào đó trong tác phẩm khiến nghệ thuật bonsai đã củng cố một cách kỳ diệu cho một quan niệm chỉ cái bây giờ mới là mãi mãi. Nếu có một cái gì đó không bao giờ hoàn thành (trong thời gian) cái đó là nghệ thuật bonsai! Bonsai là một thú chơi, mọi thời gian có đổi thay thì cũng chỉ là để phù hợp với vẻ ngoài của cây mà về cốt lõi vẫn y nguyên như thế. “Cây cao bóng cả” trong Tiếng reo được đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân sắp đặt như thế nào thì phần kết (hay hợp) của thơ cũng không cản trở những ý nghĩ sâu xa không dễ gì có thể nói ra…
Câu thơ 1 – 2, đề (hay khởi)
phác họa lên cái khung trời tuổi thơ tưng bừng qua cặp thanh ngang mà làm bừng
lên cái “chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu”! Có đâu nhiều, ai, người tung
tăng chỉ với chiếc khăn quàng vai vào cái ngày cậu bé chạy việc lên mười - Trần
Đăng Khoa, mỗi cái việc “lon ton đưa cơm…” mà sáng tạo nên “Hạt gạo làng ta”! Ôi
sáng tạo! Sáng tạo đâu có khác là sự tìm tòi! Một loại thử sức rèn luyện với
chính bản thân con đường mà không câu nệ vào việc phải hỏi thăm người khác. Tuổi
thơ… Thì ra chỉ cái tuổi này mới có cung cách xử sự của nhà thơ. Người làm thơ…
hẳn phải là người nào đó, bản thân phải giản dị đến thế nào thì mới có thể nghĩ
ra nổi những ý tưởng như vậy. Trẻ con vui chơi vì nó bắt chước được nhà thơ, nhà
thơ trong các cuộc chơi thì lại bắt chước đấng sáng tạo nên đã để ra rất nhiều
tình cảm vào “tiếng suối trong thầm thì…” Cảm hứng chủ đạo của thơ có thể từ
nguồn mạch sáng sáng trống trường làng gióng giả… Lão ông gác trường thong thả
như một mái dầm khỏa nhẹ lên những cảm xúc, thứ cảm xúc chỉ có thể cảm thụ qua
người mẹ mỗi khi chạm vào đôi gót hồng hồng nhỏ xíu của đứa con… Kìa những chân
sáo ào vào lớp học… Kìa bóng chiều dồn hết về góc sân giờ chỉ còn lại sự im ắng…
Kìa dáng ông lão chập chờn y như bóng những gốc bàng… Cặm cụi kiếm tìm khi que
khăng, quả chuyền đẽo gọt từ những cục sét khô. Cái bọn trẻ, … chơi trò thì chả
bao giờ biết chán. Chỉ phải cái chúa là hay bạ đâu bỏ đó!
Cứ đến độ sang hè là những gốc
bàng già nua kia lại y hẹn mà cùng nhau xanh trở lại… Cũng lại là những ngày mà
tiền tuyến lớn chỉ dồn dập những tin vui! Ở đâu và lúc nào đám học trò nhơn nhớn
cũng được gặp các thầy cô… Được các thầy cô dành cho rất nhiều tình cảm… Lại còn
không hiếm lần được thầy cô định hình nhân cách qua đôi câu thơ rất được cẩn thận
chọn đọc cho nghe…
“Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến
trường
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn
chương”
(Tố Hữu)
Đâu như bâng khuâng là về những
ký ức. Những ký ức đã rơi vãi đi hầu hết những buổi chiều ngăn ngắt xanh đến tận
cánh diều… Tuổi thơ vèo vào thách thức! Một thứ thách thức tự làm mê hồn những
cậu học trò mười lăm, mười bảy! Ở cái tuổi “áo chưa sờn đã chật” thì chỉ mỗi cái
việc “chuyển giao” lại cho em chiếc áo vừa được bận một lần hôm Tết, khi nghe “Tổ
Quốc gọi tên mình”!
Có lẽ phải là thứ tâm trạng lần
đầu đến nơi hò hẹn ở một cậu trai vừa lớn, mới khiến nổi đám học trò “nhớn xác”
mới bắt đầu ao ước được cái nhìn của em yêu là như chim sáo sổ lồng… Được “rập
bước đi trong hàng ngũ lớn (…) làm “Cánh chim lớn mang cờ của Đảng/ Bay bay mãi
đến chân trời Cộng sản/ Như cánh chim Bằng cưỡi gió ước mơ” (Lưu Trùng Dương), thì
cái huyễn tưởng thuốc súng ám ảnh tuổi thơ mơ về một tổ ấm cứ chiều đến, từ những
cánh đồng người cha trở về nhà như một thứ lửa của thuật giả kim bị giam chặt
trong lò nấu: tung ra và thúc đẩy đi tới “vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân”!
“Chí nhớn chưa về bàn tay không”
như một thứ cá tính của lửa và nhiều lửa mà lẽ tự nhiên cần quy tụ về một
nguyên tắc có tính nội tại. Cái góc sân
còn chưa thôi phảng phất hơi rơm; mỗi nắng sớm, lúc chiều nghiêng lân la dò
hóng tin cha…; tối tối lại “góc học tập” lại khắc khoải ánh đèn; thảng tiếng
con chim Cuốc lạc bờ lại chạnh lòng tới một chiều chơi diều cùng mấy anh vội vã
tạt qua nhà để vừa đủ nói nên lời từ biệt mẹ!
Hiếm lắm thì có đứa mới có lấy
một tấm hình thanh nữ, tô vội lên đôi nét bút chì màu… Một thứ son mà thực sự ở
đó, nó có đủ thời gian để cảm nhận được nét đẹp hanh hao suốt tháng năm chờ chồng
của mẹ… Còn thì chất “Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn”, “Ba năm mẹ già cũng
đừng mong” ngay đến “chị thà coi như là hạt bụi” nữa là em chỉ như “hơi rượu
say”...
“Ý cũng rắp ra ngoài đào chú
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam”
(Nguyễn Gia Thiều)
Câu 3, có đâu hẳn ra đã là câu
ca… Có lẽ là lúc cái dồn nén đã quay trở lại! Bên trong, và còn phải là cả ở đằng
sau nữa - cấp độ dồn nén, là sự khẳng định của hiện tại mà tâm trí như có được
điểm tựa để cứ thế mà phát triển mãi ra…
“Nay đã trở nên người anh Cả”
Ở đây, sự phân vân giữa âm và
nghĩa mới tạo nên quan hệ bất đồng thanh coi như một ấn tượng nào đó lúc thiếu
thời bất ngờ được đánh thức. Luật bằng trắc trở thành độc đáo khi chủ thể dùng
thanh hỏi. Không khó để nhận thấy hiệu quả qua việc nó làm cho cặp câu có cùng
kiểu thanh mất đi vẻ đơn điệu. Đã thế lại còn khiến được câu chẵn - lẻ liền kề
biến nhịp để ngỏ cho tính gợi thanh, qua phép đảo mô hình lẻ - chẵn.
“Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn
quanh”
(Hồ Chí
Minh)
Ở đây, vần “trắc”, nhưng là thanh
sắc mà làm tăng hiệu quả gợi tả nỗi xót xa đến tê ruột tái lòng vì vận nước, suốt
cả năm canh không sao ngủ, thì “chưa ngủ” mới là cái trạng thái từ của tỉnh giấc,
tiếng vang lên của “eureka”! Cái “chợp mắt” là dồn nén niềm tâm sự cá nhân lúc
“Tổ Quốc gọi tên mình” vào cái hình thái bộc lộ cảm thụ đau khổ con người khi
“tự do quyền” hoàn toàn bị tước đoạt… Có thế thì giành lấy tự do mới không có
gì khác là giành lấy quyền “tự-quyết-lấy”. Nếu không phải là quyền không có sự
kiểm soát để sắp đặt con người hay tài sản của mình thì tự do đâu còn ý nghĩa
gì. Khi đó “chưa ngủ” được trở thành một đặc tính thời gian, với tính cách là
điều kiện thực hiện mọi sự dịch biến, kết quả của việc luận giải “nỗi nước
nhà”.
“Anh Cả” là ca khúc khải hoàn,
kết quả suốt cả quá trình “giữ mình cẩn thận khi ở một mình” hay còn gọi là “thận
độc”. Khi “Trung hòa” chỉ về sự tu dưỡng đạt đến một giới hạn hài hòa thì “Trung
dung” mới là một bứt phá, bước tiến triển lên trên mức “chỉ túc”. Hình ảnh một
cánh diều no gió in vào trời xanh gợi nên một cảnh sắc yên bình giấc mơ gia đạo
thuận hòa!