Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015

Góc khuất với những con ong nương náu ống tay - Nhìn từ Đảng bộ cơ sở ĐHQN 5 năm trở lại!

Kỳ 4. “Kẻ ăn rươi người chịu bão”


Trong các giải nghĩa tục ngữ, câu “Kẻ ăn rươi người chịu bão”,  tôi chắc chắn người ta chỉ “tâm phục” cách giải của Tuấn Công thư phòng1… Còn “khẩu” thì hẳn nhiên cũng là thế, nhưng với riêng tôi gì thì cũng cứ phải nói thêm… Người suy xét chẳng vì vậy mà nỡ nghĩ tôi chơi trò té nước… Kẻ dựa thời có nghĩ là tôi a dua thì cứ phải chứng tỏ được tôi một giuộc với bọn người có phẩm có hàm nhờ dựa vào “sư nói sư phải vãi nói vãi hay”.

Thực tình, tôi được ăn món rươi đúng mỗi hai lần. Đều là mỗi lần mẹ tôi cứ phải gồng mình… Bây giờ thì tôi mới ngộ ra được điều, tự nhiên đối với muôn loài cũng có nghĩa là tự lo liệu nấy cái ăn. Nhưng, chẳng hạn, với giống chim, trước khi làm được điều đó, chúng phải được chim mẹ tập tành và cũng phải được kinh qua một vài trải nghiệm… Tập gì chứ tập được cách ăn uống là khó lắm, chỉ cần sai một ly là đi cả dặm liền... Chả thế mà các nhà động vật học chỉ căn cứ vào tập tính ăn uống là phân loại được ngay các cá thể loài... Nhà xã hội học cũng vậy, lý giải hiện tượng ông Mạnh Tử, họ lấy lý do thân mẫu ông Mạnh Kha phải ba lần chuyển chỗ kiếm sống là nguyên nhân căn bản. Trào lưu hậu hiện đại với khuynh hướng phi truyền thống đã gợi ra nhiều suy ngẫm khiến bao nhiêu phụ nữ làm mẹ đâu phải đều là bấy nhiêu người mẹ hiền!
Còn hồi đó, tôi nhớ là mẹ tôi cứ lần chần “dòng” cho được khi bố tôi có ở nhà… Nhưng khi bố có ở nhà thì lũ rươi lại lần khân miết mà vẫn cứ chẳng chịu đùn lên(*). Đến lúc chúng chịu đùn lên mà nhà hết tiền thì cũng đành chịu. Người nhà quê chúng tôi chẳng ai lại đi ăn chịu món “sơn hào hải vị” chế từ rươi, trừ lũ “… rồng cuốn” với động cơ chẳng chịu giống ai, cứ “ăn xong quẹt mỏ như gà” rồi cứ thế mà cứt trâu hoàn thổ...
Thế rồi “của trời” thì là cứ phải đúng luật tự nhiên. Đúng với nó thì phải là “lộc bất tận hưởng”. Tuy thiên chức “mưa móc” của Trời thì không đứa dám tranh, song đâu phải vì vậy mà ấm no được “tưới tắm” cho ra tới tận cùng thiên hạ! Chả vậy mà cứ sau mỗi bận “ăn tươi”, là bất kể già trẻ trong nhà, nhất là người lớn, đều phải tăng nhịp độ “làm việc bằng hai”, chứ không thì… Đã không sở hữu được cái “thắt lưng buộc bụng” thì thôi, …chứ còn như đã “mang lấy nghiệp”, mà không như thế thì chỉ còn cách không trở thành lục lâm thảo khấu khiến khó nhọc triều đình, thì cũng thành phường giá áo túi cơm!
Cũng may là dựa được vào cái sự “thắt lưng buộc bụng” ấy mà tôi mới sớm gia nhập được vào đẳng cấp quý tộc! Mà, nếu đẳng cấp có nghĩa là “ăn cái đã, họa tính sau”, thì tôi đã trở thành giai tầng thượng đẳng bởi món ẩm thực đệ nhất thế gian từ thuở nảo thuở nào, nghĩa là trước xa tất cả lớp người thời thượng hiện nay với cung cách kiếm mồi theo lối “ăn trả bữa”!
Khổ nỗi là gia cảnh tôi bấy giờ nghèo quá! Chỉ may được cái là cái nghèo chưa phải là đối tượng xóa bỏ của thời kì “hòa bình lập lại”. Ở nhà quê, rau cháo ngày hai bữa đã là may, huống chi thi thoảng cũng còn có được đôi ba bữa với miếng ăn có tính “cây nhà lá vườn”, không tươm tất nhưng mà… sạch sẽ. Chưa ai bảo ăn món côn trùng hồi đó không là ăn sạch (?!). Có thế mới không nên nỗi như đám “Trẻ con không được ăn thịt chó”, nếu ai đó có đọc Nam Cao!
Có đọc Nam Cao thì mới biết đến chuyện “người ta ăn hết mà không chừa một thứ gì!”. Ai chả biết giống chó nuôi trong các gia đình nhà quê là giống chuyên dụng vào việc dọn vệ sinh, nhưng hồi đó, việc sử dụng lại tất cả cái gì do con người thải ra, mà giống chó chính là một gợi ý, đã chưa được thực nghiệm một cách đàng hoàng để còn thực hành phân phối theo mức độ đóng góp. Thành ra, phận con cái vẫn cứ phải chịu thiệt đủ đường, chẳng được chừa ra cho một thứ gì, mặc dầu chúng đảm bảo trọn gói nguyên liệu đầu vào, còn quá trình chuyển hóa từ m = E thì tự động hóa hoàn toàn do công nghệ chuyển giao mà không cần tới năng lực tổ chức quản lý sản xuất!
Cuộc sống vốn phải như nó, tức tự vạch lấy đường. Bọn trẻ nhà quê chúng tôi cứ phải dựa hẳn vào cái sự “tần tảo lần hồi” với bữa đực bữa cái để rồi mà “qua ngày đoạn tháng”. Nhưng đâu phải chỉ có vậy, những sinh linh mang nặng kiếp người, kiếp người chịu bão quê tôi ấy, nhờ chắt bóp đến keo kiệt suốt cả cuộc đời vậy mà cũng để dành ra được vài thứ. Có thứ chỉ dành sử dụng riêng cho đấu tranh địch ta, tựa hồ như con cái lãnh đạo mỗi khi kết thúc nhiệm kỳ… Tôi lúc ấy, dẫu trọng lượng cả bì “không thiếu một cân” tuy không đủ tháng thì cũng chẳng đáng bao nhiêu, áp dụng cách làm tròn thì thời gian cũng chỉ đáng hai lần mang thai của một sản phụ!
Rồi, những lần về quê hiếm hoi, mẹ tôi kiên quyết thà thấy tôi “nước mắt rười rượi” còn hơn cho tôi đụng đến món rươi, bởi chứng “ngã nước” tôi nhiễm được từ những năm tháng gối súng nằm sương vật vã với cái đói cái rét… ở chiến trường!
Tôi đành “ngậm ngùi”…, lại cũng nhờ vậy mà để ra được cái nỗi niềm da diết với… rươi, như ai từng với “canh rau muống” với “cà dầm…”! Rồi quá khứ cứ thế lùi dần, nhưng cảnh đời ngập ngụa trong những cơn bão rươi thì…, thậm chí ngày càng giống đường nhựa ở ta, tiền có rải như vỏ hến đến đâu thì cũng vẫn chỉ có lún và hằn đến đó. Tôi đã chẳng khi khuây cảnh những con người quê tôi lam lũ, càng không quên cảnh lũ trẻ chúng tôi lếch thếch kéo lê tuổi thơ vào “hương quýt” mỗi khi trong chòm xóm có nhà nào xào nấu món rươi. Tất cả đều là một nỗi chán chường và ngờ vực…, kể cả các thứ trò chơi! Từ đầu ngõ, lũ tôi cứ túm năm tụm ba “nhón gót” dòm vào…, thảng hoặc có đứa, mà không hiếm khi, mất cả kiên trì mỗi khi gió thoảng đưa hương “vỏ quýt”(*) là y như rằng nó văng đổng ra cả đống câu đại loại: Đm. Sao mà thèm thế!…
Quả thật, nếu có “tam khoái” thì chính là bởi có món rươi này! Sướng nhất trần đời! Ai chưa qua chưa hẳn làm người! Tôi chỉ từng nghe chứ chưa từng thấy chủ nghĩa xã hội sẽ rồi toàn đồ ăn ngon, mặc đẹp, nhưng đánh cược với bất cứ ai có làm đến bí thư đảng, hiệu trưởng trường của bất kỳ đại học…, thì cũng đừng hòng “màng” tới món cả thèm nào khiến món rươi quê tôi bị nốc-ao… Đó là dứt khoát! Dứt khoát… cho tới bây giờ hay bất kể lúc nào, chỉ một thoáng ngạt ngào hương vỏ quýt đưa là y như xưa, tôi lại trở về với “đẳng cấp” của mình… Và nỗi niềm thương mẹ lại dữ dội bùng lên, liền bên là một cảm giác buồn, sao khi ấy tôi như chỉ biết chúi đầu vào máng ăn mà chẳng hề nghĩ đến cách nào chia sẻ món rươi xào với mẹ!…
Những tháng ngày quê tôi có rươi là cả những chuỗi ngày khổ nhục đến hai lần, như chỉ dành cho những thân phận phụ nữ “trót” sinh ra để làm mẹ, như mẹ của tôi…
Trên nắng, dưới bỏng, giông ra, bão vào… mà trên hết cả là cái tệ “quan xa bản nha gần” và trong tất cả là bọn trẻ nheo nhóc bị món “rươi xào” hành hạ… Cứ mỗi lần như vậy, mẹ tôi lại hướng cặp mắt giàn dụa, buồn bã lên trời cho nước mắt khỏi chảy ra mà nhận lấy từ bóng rươi(*) một câu vỗ về: Bố tôi cùng những bạn chài, trong những chiếc “áo phao” ọp ẹp…(cứ coi như đó là những con thuyền giã của hợp tác xã !), nhất định sẽ trở về từ ngoài biển xa…
Ái ngại nhìn lũ anh em tôi đang ngóng bố trở về để được mẹ cho cùng ăn món rươi xào, đồ, rán, sấy… nén tiếng thở dài, mẹ tôi ngán ngẫm: “quấy như rươi !”.
Lời hứa hẹn đạo đức thì cứ tựa bóng rươi… còn bên dưới thì lại vẫn cũng chỉ là cái vùng quê tứ thời không còn mấy ai biết ngủ. Đàn ông thì chỉ lo chống chọi ngoài biển khơi, người đàn bà và bọn trẻ chúng tôi, nhất là những ngày bão rươi, chỉ biết che mưa cho nhau ngoài bến sông, nghe heo may ù ù mà đoán già đoán non mỗi khi thấp thoáng cánh buồm nơi cuối trời góc bể…
Ám ảnh cảnh tượng tuổi thơ bị cái đói nghèo quấy cho kỳ đục, cám cảnh mỗi lúc lũ trẻ chúng tôi suy kiệt chỉ thèm có được món rươi, tôi thấy vụt lên “đám hiệu phó”, mà nếu sang thì cứ phải gọi theo cách của Tây, các “phó hiệu trưởng” trường tôi, đang mải “nhón gót” nhìn bí thư đảng, hiệu trưởng trường xây bếp, lát sân, kê ghế, khuân bàn, lắp nhà thể thao, tỉa tót bonsai, đón thầy cúng tế, phân bổ kẻ ăn người dựa, lập trung tâm ảo, rước công ty ma, kê khống chứng từ, chuẩn bị “di chiếu” cho người thừa kế…
Tôi đành phải xa chủ đề một chút để khỏi vạ tiếng khi quân, khi gọi các phó hiệu trưởng trường mình là “đám”.
Bản chất 2 in 1 của cái gọi là thể chế chính trị bay tui là dân chủ hay chuyên chế? Là dân chủ thì có đâu đến nỗi “tẩu hỏa nhập ma”, nhất là khi nó thấy con người ta cứ gắn bó với nhau. Phải là chuyên chế mới cần có sự bảo hiểm chắc chắn cho sự bảo toàn của  2 trong 1! Kẻ cai trị chuyên chế bao giờ chẳng biết vị tha. Nó sẵn sàng bỏ qua cho kẻ bị trị không yêu ông ta, kể cả có đào đất đem chôn, miễn là họ không yêu thương nhau cùng bảo ban nhau mà tự bảo vệ. Chẳng có nét xấu nào trong tình cảm con người lại được nền chuyên chế chiều chuộng hơn là tính vị kỷ. Kẻ cai trị chuyên chế đã không đòi hỏi kẻ bị trị giúp nó dẫn dắt công việc nhà nước thì thôi chứ còn để kẻ bị trị điều hành lấy công việc nhà nước thì chỉ có thể là thời của loạn (!). Cho nên, khi gọi các “đồng chí” làm công tác quản lý là ban giám hiệu như một chỉnh thể, tôi phải đắn đo giữa hai thuật ngữ trung ngôn và thuật ngữ dành để chỉ kẻ tiểu nhân có “dấu hiệu” rối loạn hành vi ngôn ngữ!
Cứ theo giáo trình mà tôi giảng dạy hơn ba chục năm nay, phàm là một vật thì không thể cùng lúc vừa thế này lại vừa thế nọ …Ấy thì tôi lấy dân chúng mình ra làm ví dụ. Là chủ ông thì không có khả năng thông hiểu, vì hắn chả là đối tượng của công tác vận động, giáo dục, thuyết phục để nâng cao dân trí, là gì! Còn là đầy tớ thì lại quá sang, bởi “đầy tớ thằng khôn” thì phải hơn đứt đứa làm thầy vạn đại đứa dại đứa ngây, chứ còn gì nữa!
Khi kẻ cai trị coi những người gốc gác nhà quê, tức “những kẻ quê mùa cũng thành thí thức” ấy (!), định nắm quyền điều hành lấy công việc nhà nước ở đây, nhằm cùng chung tạo dựng sự thịnh vượng là những “kẻ phá trường”, thì cũng bằng cách thay đổi nghĩa tự nhiên của ngôn từ, thuật ngữ “an ninh nội bộ” tất phải gọi những kẻ ẩn mình ấm thân “chờ thời đột nội” là những công dân tốt! Đó là một thỏa thuận chính trị mà mỗi người vốn có với phần còn lại ngoài mình, và theo đó, mà hình thành các nhóm có tính cộng đồng. Cái thường gặp, hay còn gọi là phổ biến, và hầu như là không có ngoại lệ để sự liên hiệp này bị tan rã chỉ có thể là sự xâm nhập bằng vũ lực từ bên ngoài nhằm chinh phạt cái thứ cộng đồng này. Trong trường hợp đó, trường hợp tôi đang nói đây là khả năng duy trì và hậu thuẫn cho nhau không còn nữa, thì cái liên hiệp thuộc về thực thể chứa đựng nó tất nhiên phải không còn tồn tại. Mỗi người sẽ quay về với trạng thái vốn có với cái quyền hẳn nhiên tự xoay sở và đem lại cho bản thân sự an toàn mà anh ta cho rằng như vậy mới thích hợp. Khi đó thì không tài nào kéo nổi một con người ra khỏi bản thân anh ta rồi đề nghị với nó quan tâm đến vận mệnh chung được. Khi một cộng đồng chỉ còn là tổng lượng các cá thể, thì chẳng nhẽ chính quyền trong cộng đồng đó lại là một chỉnh thể hữu cơ. Vì thế, quyền thế của kẻ đi bình định thường vô hiệu chính quyền ngay từ cơ sở và xé nát xã hội như người kẻ quê chung đụng với nhau con lợn tết, hồi còn dùng tem phiếu đại trà! Vả lại, cũng đáng tách khối quần chúng thờ ơ, ngờ nghệch nơi đây khỏi sự bảo vệ và phụ thuộc vào cộng đồng là nơi vốn có trách nhiệm phải bảo vệ họ trước chuyên chế!
Do hành vi chinh phục có thể coi như một cuộc tiếm quyền, do vậy nó là một dạng hay biến thái của sự bình định bên trong biểu hiện qua vai trò của các tổ chức xã hội bị hoán đổi. Cấp ủy khi đó, tức cái đảng ủy mà tôi là thành viên trong đó, sẽ không còn là một nhân tố đứng về phía thịnh vượng chung. Nó là gì, có phải là cái bình, đó là công việc của tôi mà tôi đã và sẽ còn tiếp tục…
Và, cái tật của kẻ chuyên quyền, đặc biệt là quyền lực trong đảng, đúng ra thì phải gọi nó là kẻ phiếm quyền khi ngôi thiêng là chiến lợi phẩm của sự dối trá, thì bao giờ cũng biết tận dụng cơ hội đặc cách phổ thông của cơ chế lo trước vui sau thiên hạ mà thụ đủ thứ ưu ái vuốt ve, đem sự dửng dưng làm thành thứ đức hạnh phổ quát.
Khi siêu bão Haiyan “dự tính” một kế hoạch chi tiết cho sự đổ bộ vào đất liền thì Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng ung dung chuẩn bị và thực hiện “Hội nghị nhà giáo tiêu biểu 2008-2013” cho vẻn vẹn… những 160 nhà giáo! Qua kênh truyền hình đúng lúc “giờ vàng” (17/11/2013) tôi thấy bí thư đảng hiệu trưởng chúng tôi còn mải chăm chú hướng lên cái bục nơi chuyên phát tín hiệu mà thuật ngữ văn hóa lễ hội gọi là diễn văn… thì theo thói quen, âu cũng chỉ là một cử chỉ tự nhiên dựa vào cơ chế phản xạ có điều kiện do P.I. Pavlov phát hiện, tôi “nhoáy sang kênh”, thấy chềnh ềnh cái Công điện 1816/CĐ TTg, 7/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ!
Sao lại không, … thì nhà giáo mà cứ phải là bí thư đảng, hiệu trưởng còn được nữa là! Tôi là giáo viên, nếu châm chước được cho tôi cách xưng về mình (!), chỉ với 32 năm trong nghề tính tại thời điểm, nhận công điện của Thủ tướng qua tivi, và cũng qua màn hình, chứ lại không phải tivi (?), không nhón gót nhưng nghển cổ dòm vào cái “Hội nghị nhà giáo tiêu biểu 2008-2013” mà nhẩn nha nhẩm tính toàn bộ số giờ dạy của hiệu trưởng trường tôi, trong suốt 3 năm, không bằng tôi “đánh vét” một vụ. Mà chỉ là vụ 3 thôi nhé! Tức là vụ hè. Suốt 32 năm, chả có “tuần chay” nào mà tôi không  “có nước mắt”!
Còn như “Trong 5 năm trở lại đây (2008 - 2013): Đối với giáo viên mầm non và phổ thông” thì tất nhiên là tôi không… nhưng, “Đối với giảng viên: giảng dạy tốt, đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp Bộ hoặc tương đương trở lên; có công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao công nghệ có giá trị, có sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng mang lại hiệu quả thiết thực.”2 thì ở đây ai chẳng như tôi, hoặc tôi chẳng như ai, với tất cả mọi người!
Thế mà tôi thì phấp phỏng ngồi đây nhận chỉ thị chống bão Haiyan từ Thủ tướng, còn đồng chí bí đảng của tôi thì yên vị giữa tháp ngà ngất trời trong lòng Hà Nội, chứ không phải là Thủ Đô (?), thấp thỏm chờ nghe “Tổ Quốc gọi tên mình” (!).
Ấy thế mà hiện tượng “kẻ ăn” với chả “người chịu” lại được nhà ông Hoàng Tuấn Công cân nhắc đi cân nhắc lại(*), vì coi chúng không hề có tồn tại mối quan hệ sản sinh! Cứ tựa hồ như cái bần hàn của con người ta, nhiều lắm thì cũng chỉ là thứ đáng khinh! Không phải sự túng quẫn nó bắt con người ta cam chịu, mà chẳng qua là những tư tưởng mỹ miều nó xui, khiến cho con người ta có được mà thôi! Chẳng phải vì không có chức quyền mà thèm thuồng ham hố sự vinh danh để thành nổi tiếng. Trái lại, chính kẻ chức quyền mới cần nỗ lực nhồi sọ cho con người ta cái thứ ý thức đức độ như thứ “bóng đi trên trời”(*) chứ chẳng phải đó không là thứ phiếm quyền chủ nghĩa!
Đã lâu, thậm lâu, trước công nguyên dễ tới bốn, năm trăm năm… Uể oải trong vai pháp quan nghe cuộc đối chất giữa lý trí sáng suốtnhận thức mờ tối, Democritus phán nhanh mà không cần thái độ của bồi thẩm đoàn: quan hệ giữa hiện thực và tư tưởng không phải là thứ quan hệ sinh sản, nó là thứ quan hệ bắt chước. Ông nói “Nghệ thuật là bắt chước”, rồi tới luôn: “Người khôn ngoan nên phải vui với cái có”. Khổng Tử cũng không vừa. Cứ như ông thì phải là “An bần nhi lạc”. Chỉ Lão-Trang là hớt ha hớt hải, nhưng mà là lo bò trắng răng khi ra sức can ngăn để có “thuận theo tự nhiên” mà vô vi thuần phác. Không nên can dự mà vui vẻ hòa đồng, biết chấp nhận như “vạn hóa” vào tất cả. Ngủ rồi thì Trang Chu hóa bướm hay ngược lại, cũng chỉ bấy nhiêu! Bởi nhiều kỵ húy (lễ) thì nghèo, nhiều khí giới thì loạn, nhiều tài khéo (trí tuệ) chỉ làm cho xảo trá tăng lên, pháp lệnh nhiều bởi không dư dả thứ của cải hiếm hoi…, bảo sao không nảy sinh ra lắm trộm nhiều cướp3 (?!).
Thì ra cổ nhân còn là người biết nhồi sọ. Lấy cái kẻ ăn với người chịu mà móc lại với nhau, cho chúng phân bua với nhau một tý, xem cái nào sinh ra cái nào, cái nào hoạt náo cái nào thì có đến… móm răng rốt cuộc rồi cũng sẽ trơ ra… còn lợi!
Thế mới thấu đạt đến cái độ thâm túy của nhà folklore “tay ngang” Hoàng Tuấn Công. Quan hệ sản sinh trước hết là một quan hệ nhân quả. Thay vì “kết quả” dù có hàm nghĩa như là hậu họa thì ông Hoàng Tuấn Công chỉ giữ ý kiêng khem cho hợp ngôn với từ “hậu quả” (!). Có thế thì mới thấy công tác cán bộ với chính sách quy hoạch nguồn và hoạch định chức năng hoạt động cho các “thành phần nhân tố” nó kín kẽ còn hơn cả rừng tục ngữ ở ta! Ai chứ, tôi là “Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu. Chúng ta có học tập được không?”4
Chẳng nhẽ “Mũi dại lái phải chịu đòn” (?). Ý này, đã nhiều lần được Cụ Hồ dẫn ra để dạy bảo công bộc của chế độ ta5. Tôi nói thêm, Ông Nguyễn Sinh Hùng chả bảo là Quốc Hội là do dân, quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai!
Ngôn ngữ hiện đại với hệ thống ngữ âm giàu tính ước lệ của các cơ quan tuyên giáo đã thẩm vào tận thôn cùng xóm vắng khiến cái thực trạng xã hội bấy nay vốn kèn cựa mãi với lý tưởng được cất kỹ trong cái hệ thống ngữ âm đầy tính ước lệ ấy bỗng trở thành người bạn đường của nhau như như con rươicái bóng(*)… Không ai chịu nhìn thấy khi nhóm người này được thực thi tất cả các quyền lợi thì nó cũng đem cái gồng gánh tất cả mọi nghĩa vụ chất hết lên vai số còn lại kia. Trong cái ngữ cảnh folklore mà tôi đang đề cập, kẻ ăn thì chắc hẳn là chẳng có lỗi gì, cứ coi như lúc tôi từng được ăn món rươi khoái khẩu mà không nghĩ, nhỡ bố tôi cùng những người bạn chài của ông… Ít ra thì cũng còn là với mẹ tôi, quanh năm đầu tắt mặt tối cũng chỉ vì chút hạnh phúc nhỏ nhoi của lũ anh em chúng tôi. Đạo đức không thể bắt lỗi những đứa trẻ chúng tôi khi ấy được sinh ra mà lại chẳng có gì để chén! Người chịu mới có lẽ vì thế mà không bao giờ thấy mình bất hạnh mỗi khi được tham gia vào hoạt động trao đổi theo cơ chế thị trường… phi lợi nhuận này! Để có được một bữa ăn tươi cho con cái, nói bằng thứ ngôn ngữ nhà quê là cải thiện, nhờ Trời (!), đời có quăng quật thế nào cũng cứ đổi! Người ta phải không hề thấy nhục nhã, chẳng hạn, thế hệ ông cha vì miếng cơm manh áo không chỉ cho mình!
Thế mà lúc “ăn mày gặp chiếu manh” thì chẳng buồn nhớ tới ai, người trồng cây sung…, nhưng hễ khi cần phải “mọc mủi sủi tăm” là y như lũ chuột chũi vừa chạy, vừa đi, miệng ra rả oán thán cha ông đớn hèn mà rồi để dớp lại dài dài cho con cho cháu!
Cả một bọn “có máu mặt” đáng bậc tiên chỉ, chức danh này, học vị nọ chen lấn chỉ để được xếp bằng tròn trong cái chiếu “Hội đồng khoa học công nghệ” cốt chỉ là để thông qua lấy được cái đề tài khoa học “Chiến lược phát triển Trường Đại học Quy Nhơn…” cấp trường mà “chia” nhau 80 triệu! Vì 80 triệu này mà cái Luật Giáo dục Đại học, khi không quy định cho khoa Kỹ thuật & Công nghệ “chủ quản” ngành Công nghệ Xây dựng Chiến lược phát triển Nhà trường Đại học Quy Nhơn bất chấp Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, cũng vào sọt rác6.
Một chiến lược cứ từa tựa như cái biểu trưng thái cực với hai con nòng nọc đang ngậm đuôi nhau do gã thợ nề mỗi lúc nông nhàn, bồi lên cửa miếu thờ thần hoàng làng vậy... Nó được “trí tuệ” nghĩ đúng vào lúc như lúc “Trang Chu hóa bướm”. Một thứ nghệ thuật bắt chước. Nhà lãnh đạo cần phải suy đoán kết quả hành vi ngay cả khi buộc phải chuyển dịch cơ cấu khớp gối và vai khi di chuyển trong xế hộp! Nó được nghĩ ra vào mỗi đầu nhiệm kỳ để kéo dài nhiệm kỳ khỏi bị “hụt” hơi. Một chiến lược mà chỉ cần “vỡ chữ”, làm khoa học mà không “vỡ chữ” thì chỉ có làm đĩ, là nhận ra ngay cái phương châm và thủ đoạn toàn cục cần được vận dụng với việc tìm tòi hệ thống quy tắc chỉ đạo trong đó bao hàm mục tiêu thực tiễn chủ yếu, là khác biệt nhau7. Nó tựa hồ như một cát tuyến được định hướng đến thiên đường với một đằng là bước đi vốn có của con người; sau bò lết là lúc vịn thành giường, khi hai chân thò ra từ hai vai, nếu quan sát từ bên trên, là khi nó đã biết từ chối gập thân để trở thành người có sức mạnh…
Rốt cuộc rồi thì cũng chỉ có người dân mới cần phải “chấp hành tốt”…, vì luật pháp dẫu có mặc áo rách thì nó vẫn cứ là đức hạnh. Cái “Hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học công nghệ cấp trường (5/2013)” do ông trưởng phòng TĐL lập nên thực chất là hội đồng đảng ủy với chức năng mới mẻ mà người ta gán cho nó, đã chắc gì đã ai hiểu được! Một sự phiếm quyền mà lại vứt bỏ chủ nghĩa phiếm quyền! Thẩm định chiến lược phải là người có tầm lãnh đạo vì nhà lãnh mới có tầm chiến lược. Ấy là cái năng lực phán đoán tình thế một cách khoa học, hà tất phải ra ngõ mới biết được thiên hạ (!); nâng cao năng lực điều hành kinh tế, hơn nữa lại là kinh tế tầm nhìn, vị tất phải như các nước văn minh người mẹ đi làm, trẻ con đi học trên các tầu cao tốc…; nâng cao khả năng ứng phó với tình hình phát sinh cũng là vị tất, vì điều đó đã được đảm bảo bởi những kẻ thạo nghề phù thủy như NQC, VND; thay vì nâng cao năng lực cầm quyền theo pháp thì đã dung dưỡng cái thói hợm mình và vuốt ve bằng tiền những người lười biếng; không ngừng nâng cao năng lực nắm bắt tình hình cũng vị tất, khi chỉ cần biết cách chăm sóc “Con la của Giáo hoàng”8 (Alphonse Daudet).
Chỉ bằng một vài lời lẽ khéo léo của những kẻ làm trò ảo thuật, mà Đại học Quy Nhơn mất đứt 80 triệu Việt Nam đồng! 66 trang giấy A4 “đâm toạc” 160 tờ giấy bạc 500… Giá bình quân mỗi trang (bằng chữ… một triệu, hai trăm, mười hai ngàn đồng… không chẵn) kể cả khi nó còn trắng hếu như… đít ếch9, vẫn bằng nửa tháng tiền lao động khởi điểm của một cử nhân!
Bỏ đi thì tiếc!
Cầm “bản quy hoạch” là sản phẩm đầu ra10… như tấm thông hành, Đại học Quy Nhơn liệu có chắc chắn được ông chủ doanh nghiệp Nguyễn Thiện Nhân, và Đức Giáo chủ Vũ Hoàng Hà, qua đội ngũ kế cận do các ông quy hoạch là Phạm Vũ Luận và Nguyễn Văn Thiện, cho tham gia vào cái thị trường mà toàn bộ thị phần do các ông ấy kiểm soát?
Một thứ đặc trưng “kinh tế và chính trị của thời kỳ…” lên ngôi thứ chủ nghĩa phiếm thần luận!

(Kỳ 5. Pháp sư với thuật giả kim)
………………………….
3.x. Lịch sử triết học Đông phương, Nguyễn Đăng Thục, Tp Hồ Chí Minh, 1981, t2.
4. x. http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20141001/dan-gop-tien-de-xu-ly-no-xau/652834.html.
5. Nguyên văn “Chính phủ làm hại dân, dân có quyền đuổi chính phủ”.
6. x. Luật Giáo dục Đại học, Chương V: Hoạt động khoa học và công nghệ.
8. Giáo hoàng Bonitax có một con la rất đẹp. Cả Avignon trọng vọng nó. Là cách để được đấng bề trên để mắt tới..
Tixte Veden một thằng oắt trâng tráo bị cha nó tống khứ… Một hôm nó sán lai ca tụng con la mà được Giáo hoàng nhận vào “Trường dạy thánh ca”, nơi chỉ dành cho con cái quý tộc và cháu các Hồng y. Tixte đã lập mưu như vậy.
Nó ra sức chăm sóc con la nên càng được lòng Giáo hoàng. Để càng được đức ngài để mắt tới, Tixte lập mưu đưa con la lên gác chuông để rồi  săn đón tìm cách đưa con vật này xuống. Cùng với việc uống rượu vang của con la và hành hạ nó. Con la đã  mang nặng mối hận thù…
Bonitax quyết định thưởng công cho Tixte về những gì ngài này trông thấy với “cục cưng” của mình. Cử Tixte đi học ngành ngoại giao tại triều đình Naple.
Bảy năm sau hắn trốn về vì cơ hội tiến thân do cái chết của Đệ nhất giáo chủ ở Avignon… Giáo hoàng Bonitax chấp nhận cho Tixte, bất chấp cả các Hồng y…
Tixte xuýt xoa và đòi gặp con la… Buổi nhậm chức sắc, nó tiến đến và vuốt ve con la cốt để Giáo hoàng lại thấy. Và ngài này đã thấy một cú đá của “thú cưng” làm Tixte tơi bời!
Tính chất học thuật của một đề tài khoa học không coi thường các chi tiết: “tên đề tài”  (… đến năm 2015, … đến năm 2020); cách đặt vấn đề, kết luận; bối cảnh không-thời gian (thực trạng và các chủ trương lớn của Đảng và NN - NQTW 8; thời gian triển khai và kết thúc (1/’12 – 12/’12), nghiệm thu công trình (5/’13); quyết toán công trình (4/’12); đơn vị quản lý chuyên môn và Luật Giáo dục; tác giả công trình (chuyên môn/ nghiệp vụ hay nghiệp vụ chuyên môn)… để tỏ tường tính cấp thiết hay tính hối hả của đề tài khoa học công nghệ.