Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

Đánh chuột [tất phải] vỡ bình!

Lấy cảm hứng từ “Vì nền độc lập tự do của đất nước, vì sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, xứng đáng với sự tin cậy và ủy thác của nhân dân” với “chủ động “rút củi đáy nồi” và “phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” trong xử lý quan hệ với kẻ thù”, ông Nguyễn Phú Trọng đã đối xử với kinh nghiệm truyền thống bằng “đánh chuột không để vỡ bình”.

Về văn cảnh thì “rút củi đáy nồi” và “phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” với “đánh chuột không để vỡ bình” là cùng một ngữ cảnh: chỉ dẫn cuộc đấu tranh với thù trong giặc ngoài. Còn về hoàn cảnh xuất hiện sự kiện thì không phải cùng. Với ông Trương Tấn Sang là để “xứng đáng với sự tin cậy và ủy thác của nhân dân”; còn với  ông Nguyễn Phú Trọng thì là báo cáo với cử tri, khu vực ông được bầu cử, với sự ủy nhiệm của nhân dân thông qua các cử tri khu vực này mà ông nhận được sự ủy thác.
Điều này nên phải rạch ròi. Đừng vì thế mà suy đoán rộng ra thành thái độ của Đảng ta trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
“Rút củi đáy nồi” và “Canh nóng thổi rau nguội” (đúng ra là “canh nóng thổi dưa”, ông Hoàng Tuấn Công nếu thấy đúng thì ừ cho tiếng nha) là thể hiện cách ứng xử chừng mực không làm cho địch tình trở thành quá trớn, khó kiểm soát. Phải biết tiến lui đúng lúc nhưng dù thế nào thì cũng kiên quyết giữ thế tiến công chứ không vì “rút củi” mà lại thành nhụt chí chỉ lo bảo toàn lực lượng để rồi rơi vào tình cảnh thúc thủ, mà đắc tội với nhân dân trước “âm mưu diễn biến của các thế lực bên ngoài”(?!).
Thế nên, phải kiềng “Canh nóng thổi dưa” như một hàm ý, có khi nào nhỡ “rút củi” không kịp thời, khiến nước “bùng” ra khỏi miệng nồi, lần sau hễ cứ thấy nước đun là… lo thom thóp!
Còn “đánh chuột đừng để vỡ bình” thì lại thể hiện thái độ thúc thủ của cơ quan quyền lực cao nhất mà đại biểu Quốc hội, ông Nguyễn Phú Trọng trải lòng.
“Đánh chuột vỡ bình” là tất nhiên. Tính tất nhiên này chỉ rõ hoặc đánh, hoặc không. Hai khả năng có thể: 1) “chuột chết” mà “bình nguyên”, xác suất chân lý của kết luận quy nạp luôn không bằng 1; 2) “Trạng chết thì Vua cũng băng hà”, xác suất chân lý của kết luận này gần bằng 1. “Gần bằng” vì “ẩu”: đánh một đằng, mà lại tan một nẻo, chuột thì nhăn răng chuột cười, bình thì tả tơi hoa lá! Tính ngẫu nhiên này để ngỏ cho hoạt động tự do sáng tạo của con người: đánh chuột cứ đánh, giữ bình cố giữ; bằng không giữ nổi bình thì cũng cứ… Đánh!
Hồ Chủ tịch dạy “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm càng ít, mà những tính tốt như sau càng thêm. Nói tóm tắt tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [t. 5; tr. 251]. Bởi chỉ “có chí công thì lòng dạ mới trong trẻo, đầu óc mới sáng suốt để chăm làm những việc ích nước lợi dân” [Phạm Văn Đồng].
Sự nhạy cảm trong việc nắm bắt mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển bền vững trong “cuộc chiến đấu khổng lồ” (Hồ Chí Minh) chống lại không phải chỉ cái tàn bạo mà cả những cái cũ kỹ, hư hỏng đã khiến Cụ Hồ đòi hỏi “phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm” [t. 8; tr. 493]. Là bởi, trong cái "xã hội miễn cưỡng”, “cái tốt mà lạ người ta có thể cho là xấu, cái xấu mà quen người ta cho là thường… (nên) số rất ít người không theo, khuyên mãi cũng không được lúc đó có thể dùng cách cưỡng bức bắt họ phải theo” [t. 5; tr. 91].
“Cách mệnh đến nơi” (chữ của Bác) là xây dựng lại xã hội, cũng là tổ chức lại đời sống cộng đồng. “Là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất”, đòi hỏi phải kết hợp tất cả các biện pháp, hễ “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh” [t. 4; tr. 57].
Khi ông đại biểu Quốc hội Nguyễn Phú Trọng trải lòng về sự hiện hữu của một hệ thống các mối quan hệ “lằng nhằng” với những “chân giò” và “nậm rượu”… như gợi cho chúng ta một suy ngẫm: chúng ta chưa có xã hội. Đúng là chân lý bao giờ cũng tự tìm đường đi cho nó. Ở ta mà có sự hiện hữu các mối quan hệ xã hội, thì sẽ không bao giờ tồn tại được các mối quan hệ “lằng nhằng” với tính cách là quan hệ chủ đạo kia; những mối quan hệ lấn lướt các mối quan hệ xã hội, trở thành chướng ngại vô cùng lớn ngáng chân ta trên con đường xây dựng một xã hội giàu, mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Một xã hội theo đúng nghĩa, chỉ tồn tại các mối quan hệ xã hội. Các quan hệ này, dù có phức tạp đến đâu cũng đều bị / được điều chỉnh bởi luật pháp. Cho nên, pháp luật sẽ “thúc thủ” trước các mối quan hệ “lùng bùng” không rõ hình thù “bánh hú trao đi, bánh bèo trao lại” dựa trên cơ sở “ơn ngãi” chứ không phải là “hạch toán” “lỗ lãi”. Nền kinh tế tự túc và cống nạp (chữ của Trần Đình Hượu), phương thức phân phối và cách thức hưởng thụ là “bổng” và “lộc”: tương ứng, tương cầu, tương giao, tương thôi, tương ma, tương thế, tương thành với nhau, thì phải lấy “ân nghĩa” ra mà đối đãi với nhau. Cho nên, lúc này “ông mất chân giò, [thì] bà thò chai rượu” lúc khác!
Quan hệ cống nạp, biếu xén, đút lót trước hết là quan hệ gia đình, gia tộc và cao hơn cả là quan hệ quốc (nước) gia (nhà) mà Nhà nước là một đại gia tộc. Nhà nước chuyên chế  Phương Đông là một hình mẫu của kiểu tổ chức xã hội theo kiểu công xã mà ta còn được thấy tính chất bảo tồn về mặt lịch sử ở Bắc Hàn. Mọi thần dân chỉ là “người làm” cho gia tộc họ Kim, những kẻ “trông coi” thì nhận “lộc” để hưởng “bổng”.
Đó là tính chất của mối quan hệ gia đình-nhà nước. Lãng xã là một hệ quần thể các gia tộc. Quận (quần chi /làm thành bầy), huyện (huyền chi /gắn bó lại) đều có chung một nghĩa “gộp” chung các làng xã lại thành một đơn vị hành chính (không phải đơn vị kinh tế) tiện đường cho việc huy động sức dân làm phu phen, tạp dịch… và bộ máy trung ương chỉ bao quát đến quận, huyện; vua chỉ bổ đến chức tri huyện còn bên dưới nữa… chào thua “lệ làng” bởi các thân hào – những bậc đàn anh có thế lực: bô lão, thân sĩ, những dân anh chị “có máu mặt”...
Cách thức sinh hoạt quần tụ theo họ hàng tông tộc, khiến làng thành các đơn vị tự trị mang tính tổ chức nhà nước một cách hình thức, nên rất ổn định. Lý trưởng tuy là đại diện có tính chất nhà nước nhưng việc công thì lại phải bẩm báo với “tiên chỉ” thì mới được hành sự. Cho nên đánh chuột là không đánh được, mà có đánh nhưng không vỡ bình, thì lại chưa từng ai nói bao giờ!
Là bởi, nhà nước chuyên chế chỉ cốt sao giữ cho “bốn phương phẳng lặng…”. Tiên Đế đặt ra chế độ “hưởng dân”, rồi sau đó thì cứ thế hưởng thôi. Tiếp sau vị vua sáng nghiệp là các “vua thủ thành”, mà để "lưới rung" lên là “chết cả đám”. Cho nên, bất tài mới hữu dụng. Người tài năng thì lo sửa đổi. Vua chuyên chế chỉ lo sử dụng người giỏi văn chương chữ nghĩa, nói được cho dân tin để dân nộp thuế đầy đủ, đi phu đúng kỳ, đi lính đúng đợt, là ổn! Điều này khiến ta thường không lấy làm lạ khi vua rất chăm chút cho đám tuyên giáo, và dung dưỡng thói bạt mạng của đám hào trưởng và đám quan lại địa phương. Đứa nào cứng đầu thì ban thêm cho nó vài tước, cần thì gả con gái cho. Chẳng tiếc! Khi không cần nữa thì lấy lại, ví dụ như với Jang Song-Thaek, cũng chẳng mất gì!
Đánh chuột tất phải vỡ bình. Đó là khí thế kiên quyết tiến công, “…Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân ta quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do”, khi đó ta sẽ “xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”.
Đến đây, việc trở thành đơn giản hơn rồi. Có muốn xây dựng “Đời sống mới” như Cụ Hồ muốn cho nước nhà thì “đập chuột”, mà không thì thôi!
Lũ chuột ăn đêm cho nên ngày ngủ. Còn người hoạt động ban ngày nên không thể thức canh suốt về đêm. Chuột và Người, về nguyên tắc không bao giờ thèm “nhìn mặt” nhau. Trừ loài mèo có thể quan sát thấy cả hai, trừ khi nó bị biến thành biểu tượng hợm hĩnh dùng cho trang trí ngày Tết, ngày này còn là “mùa cưới hỏi”/ mùa sinh sản, trong Tranh Đông Hồ.