DÂN NÀO CHÍNH PHỦ ẤY
Có mà được phép chất vấn nhà lãnh đạo (như cách của nhà phóng viên) chẳng hạn: “Phong cách Hồ Chí Minh là gì?”, sẽ không có chuyện trừ ra ai dám cả gan, mà tất cả đều sẽ cùng nhận được: “Nói đi đôi với làm!”. Trừ khi, ai, từ sự phấn khích này hòng tìm kiếm niềm phấn khích mới: “Thế khi nào thì là nói đi đôi với làm?” lúc đó mới là, “Khiêu khích kiểu đó, anh vào lò!”. Ai ở trong lò đều như thế! Biết “khi nào thì” trước khi biết “thế nào là”… dzô lò!
Chỉ trong các công việc hiện
thực con người mới thể hiện một cách tự nhiên phương thức tư duy thật sự. Ngôn
ngữ không phải là hình thức duy nhất mà tư duy của con người thể hiện ra. Vả lại,
trong hầu hết các trường hợp, cái con người thấy mới lại không có trong cái con
người nói. Thành thử chỉ những công việc hiện thực mới thực sự phù hợp so với
các cuộc luận bàn mang tính từ chương về nó. Có thế thì mới không hoàn toàn
chính phủ nào cũng chỉ dường như đại diện cho lợi ích đối lập lại với công
chúng. Hiếm thì cũng có nghĩa là có, nhưng là khi niềm tin vào tính cách của những
triết gia được trở thành tập quán nhà nước, tức quyền đã biến thành luật pháp. Tính
chuyên chế của tập quán dành cho nó quyền phát ngôn chính thức khi bóc mẽ điều
gì đó bị biến thành tín điều. Ở đâu có niềm tin tập quán ở đó không có lời nói
dối cho mỗi khi cần phải tuyên thệ như là cách thể hiện sự chân thành.
Chẳng hạn, … Thế nào là “… dân
đuổi Chính phủ”?
Phong cách nằm ở từ “thì” chứ
không phải ở từ “là”. Hình thể ấy là hình tròn “nếu” nó được tạo ra bởi một điểm
linh động quanh một điểm cố định của một đoạn thẳng! Lấy một cái đã biết để biết
một cái chưa biết thì được gọi là “là”. Cái đã “là” thì không thể dịch chuyển
thành cái gì khác: “không là”. Hễ chính phủ “làm hại dân” thì dân đã có tất cả “quyền
hành và quyền lực đều ở nơi dân”! Có thể người ta gọi cái gì đó “thì”/ “là”.
Cái gì đó “là” là cái đó tồn tại; cái gì đó “thì” là nó theo nghĩa được xác định.
“Nếu Đảng sai thì dân phải phản đối để còn kỷ luật anh làm sai làm hỏng” (NPT).
Không phân biệt rành rẽ như vậy nên nhiều người cứ nghĩ rằng Nho giáo dùng hình
tượng “nước lật thuyền” như một điển phạm vào biểu dương sức mạnh của dân
chúng.
Đúng là “Nước chở thuyền nhưng
nước cũng có thể lật thuyền!”. Nhưng cái ẩn dụ xã hội này thế mới lại gây ra
quá nhiều rắc rối. Phó từ đối chiếu “cũng” đã khiến mệnh đề này luôn có tiền giả
định, rằng có sẵn những thế lực chỉ hăm he vào mỗi việc “lật thuyền”. Nền tảng
của triết lý “trâu buộc ghét trâu ăn” kiểu này đã dìm sâu xã hội vào tình trạng
chia rẽ. Phải “chia rẽ” vì mục đích của Nho giáo là gieo rắc vào tất cả các
chính quyền nỗi ám ảnh lật thuyền! Còn để làm gì thì phải căn cứ động cơ của
nho sĩ, khi cái sở học mới dành được cho họ độc quyền việc soạn thảo các thư tịch
và chú giải các chủ trương! Có vậy nên ám ảnh này mới hành hạ Nho gia cả bấy
ngàn năm khiến giới cầm quyền được nhà nho bao bọc cứ ăn không ngon ngủ không
yên. Thì ra những lý thuyết của quá khứ vẫn còn năng lực lý giải hiện thực... Chỉ
có điều, năng lực ấy trên thực tế không phải lúc nào cũng biểu hiện ra một cách
như nhau. “Luật pháp càng nhiều trộm cắp càng tăng” là cách tạo điểm nhấn về hiệu
quả thực tế… Nên tri thức phải là cái gì đó nhiều hơn chứ không thể mãi chỉ với
mỗi niềm tin đúng một cách tình cờ. Cho nên, khi định nghĩa tri thức “nước lật
thuyền” thực chất là gì (?), có bậc trí giả đã minh định rằng ấy là dân chủ! Thật
quá đáng khi coi nó là dân chủ. Lúc tự trấn tĩnh bèn chữa cháy bằng cách gọi là
dân chủ kiểu nho giáo, hàm ý là dân chủ vô pháp. Nói chính xác là bất chấp hiến
pháp thành văn!
Cơ chế của “lật thuyền” đơn
thuần chỉ là “thuận ý”. “Cách mệnh của Thang, Vũ vừa thuận ý trời lại hợp lòng
người” (Mạnh Tử). Thuận ý lại mới sinh ra ám thị (các tượng quẻ trong Chu Dịch chỉ
là những ám thị của thánh nhân). Đã ám thị điều sai trái, thì cứ phải theo sự
sai trái ấy trờ tới. Tội bất kính chẳng hạn, bản thân tội ấy là một ám thi, cứ
theo sự ấy, tức khai triển khái niệm ấy ra, là bắt gặp sự quở mắng hay trách phạt
ngay liền!
Suy ra thì quyền lực chính trị
chỉ là quyền lực gia trưởng! Tuy gầy dựng trên những nền tảng rất khác nhau và
tất nhiên mà có những kết cục khác nhau nhưng chung quy thì quyền tài phán gia
trưởng chỉ để dùng vào việc truyền tử, tức là quyền chi phối sau khi chết bằng di
sản, tùy thuộc vào tính khí người cha của cộng đồng. Có vậy thì mới không thể
loại trừ tình hình gia tăng quyền lực dựa trên việc thực hiện nó một cách bừa
bãi. Canh cánh với những ám thị sai trái sinh ra từ ám ảnh lật thuyền, các thủy
thủ đoàn chỉ lo sửa soạn cho công việc sửa thuyền, ngay cả đương khi giữa dòng
cũng chỉ lại nghĩ đến việc “lật thuyền” lên sửa!
Di chứng nặng nề của những ám ảnh
loài là hiện tượng “lại giống” (trở về giống với vật tổ ở các thời trước) gọi
là những ám ảnh cưỡng bức. Ám ảnh cưỡng bức làm thành cái “vô thức tập thể”
sinh ra hàng loạt những cấm kỵ. Tầng lớp sĩ-quân tử khi bị những cấm kỵ kiểu
này dồn nén mới chỉ còn biết mỗi việc cảnh giác để khỏi bất ngờ. Nỗi thấp thỏm
làm mất ăn mất ngủ làm gia tăng khả năng phản vệ mới nên nông nỗi thông qua các
những tình huống giả định mà những ám ảnh “nhất thiết có kẻ thù” (chữ của S.
Hungtington) cứ sâu sắc mãi lên sự hằn học. Tâm trạng của anh kép hề thường là
vậy, hễ nhìn vào đâu cũng thấy người ta cười!
“Biến thể” của ám ảnh lật thuyền
mới làm sản sinh ra đám tiểu nhân lười biếng “vô học” chỉ chăm chăm vào mỗi việc
lo “tranh thiên chức với trời”. Vì không chịu “an bần” mới thôi “lạc đạo”. Tội
bất kính không sinh ra từ đây còn sinh ra từ đâu được! Có thương thì mới phải
dùng đến roi vọt, chứ ghét rồi thì chỉ còn là những hình phạt bổ sung…
“Lật thuyền” là một khả năng
có thể! Chính vì có thể mà nó chuyên giả định mầm bất hảo vốn tự thâm căn. Chỉ
có hay không có triệu chứng… Nên nho giáo mới thường xuyên cảnh báo “bang hữu đạo
thứ dân không được luận bàn”, tức thị là tắt đài! Bằng cách này mà Nho giáo mới
chế ra danh từ “dân ý” để “ý dân là ý trời”. Có là ý trời thì dân chúng mới có
thể được miễn trừ cho chính mình khỏi việc tuân thủ đối với những luật mà họ được
ông trời bảo hộ. Nhưng vì không thể có quyền lực nhiều hơn quyền lực vốn có nên
mới không ai lại có thể chuyển giao cho người khác nhiều hơn quyền lực mà bản
thân anh ta có. Mới gọi dụng ý là vậy! Dụng ý là một cách để giả định rằng Nho
giáo xiển dương việc nêu gương cẩn thận để “khuyến khích hành động của thiên hạ”
nhưng cũng chỉ về phương diện câu từ: “Xử lý chuyện của cải cần chỉnh sửa lời
nói cho đúng, cấm dân làm bậy, đó gọi là nghĩa” (Dịch, Hệ từ hạ, 1)
Trong Chu Dịch, tượng quẻ “nước”
trong “Thiên Thủy tụng”: “Ăn uống (ý nói sự phân chia lợi lộc) thì phải kiện tụng,
cho nên tiếp đến quẻ Tụng” (Trình Di) để nói về hai thể cứng rắn và thâm hiểm.
Dưới hiểm trở, trên cứng cáp, không gặp là không thể nhưng hễ gặp thì lại sinh
tật. Lại nữa, bên trong (nội quái) hiểm hóc, bên ngoài (ngoại quái) cương cứng
là cái cớ để sinh ra kiện tụng! “Trời với nước đi trái nhau, đấng quân tử coi
đó mà dấy việc mưu tính lúc đầu [/ mưu thủy: cẩn thận, giao kết, khế khoán] thì
kiện tụng mới không bởi đâu mà sinh ra nữa”.
Còn ở tại: “Nếu chính phủ làm
hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên
cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”. “Không cần
đến nữa” không phải “không bởi đâu mà sinh ra”!
“Không bởi đâu mà sinh ra” là
về cớ. “Không làm được việc cho dân” là nguyên nhân khiến dân từ bỏ. Nhân quả
là quan hệ tương sinh, dân mới lấy sự hài lòng được phục vụ để ngầm đưa ra kết
ước. Kết ước thì không vì sự anh cai trị tôi mà vì sự tận tụy phục vụ tôi. Tức
là chính phủ không là nhà cai trị mà thông qua các quan chức trở thành người phục
vụ. Có phục vụ thì mới có sự thu hồi! Nhân dân sẽ thu hồi tín nhiệm đối với bất
cứ thành viên nào của chính phủ mà ủy thác hay trao lại cho người khác xứng đáng
với những trông cậy của mình.
Nếu không quá câu nệ vào thứ
hình thức cứng đờ như cách những môn đồ của chủ nghĩa kinh nghiệm thì đâu đến nỗi
những ám ảnh quá khứ trở thành những áp lực để rồi thoát ra bằng thứ tâm thức
tác loạn: loạn thị, loạn thính, loạn ngôn, loạn động, cứ phải giấu giếm. Nếu chữa
bệnh thì phải theo dõi (kiểm soát) nguyên nhân của căn bệnh mới có khả năng diệt
trừ bệnh tật đến tận gốc thì tu dưỡng nhân cách chỉ có thể phải theo một đường
hướng ngược lại: những điều bê bối, tai tiếng phải được phơi bày ra trước những
phán xét của đồng loại như là cách “lập thân”. Có lập thân thì mới tiếp cận được
ngôn từ phong cách. “Phong cách” chỉ nói đến nét đặc trưng, ở đây là sự vượt
lên những hình thức khác về đặc điểm gì đó, chung quy là tự do, tức là sáng tạo!
Mục đích của sáng tạo chính là phơi trần những câu hỏi đã bị các câu trả lời
che giấu đi mất. Ví dụ, “Kiện (Tụng), có thật, bị
lấp, phải sợ, tốt; theo đuổi đến cùng, xấu”. Mới nên “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân” là “cùng dân yên nghỉ”! Minh triết chỉ có thể là người biết dựa được vào
những ý tưởng trong sáng của tư duy, sự hài hòa về những xúc cảm thẩm mỹ và sự nhất
quán về logic.
Nói học tập Hồ Chí Minh mà hỏi
gì cũng phải có chỉ đạo. Mới hỏi, “phong cách Hồ Chí Minh” khơi nguồn từ những
cảm hứng chủ đạo trong truyền thống “quyền mưu bản thị dụng trừ gian” để đến với
những bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của “cách mệnh Pháp và cách mệnh Mỹ”
được “suy rộng ra”, có biết không? Một cách thành thực trong các cảm xúc “tôn
giáo nhân dân” (Rut-xô) và đạo làm người, phong cách Hồ Chí Minh là sự thể hiện
một cách chân thành đối với “Thần linh pháp quyền”! Đây là cách Hồ Chí Minh vận
dụng các hình thức thể hiện tư tưởng “Trong bầu trời này không gì quý bằng nhân
dân” để không sa vào chủ nghĩa hình thức. Sự phát huy cao nhất trí tuệ của bản
thân cá nhân từ những kinh nghiệm Nho giáo đến nhận thức được về mặt lý luận
toàn bộ động lực của lịch sử xã hội Việt Nam mới làm nên phong cách Hồ Chí
Minh. Không phải bỡ ngỡ gì nếu cắt nghĩa cội nguồn của phong cách ấy đi từ những
cảm hứng lấy từ triết học Anh thế kỷ 17 với tính cách là hoàn cảnh làm tái hiện
tư tưởng thân dân hay văn cảnh ẩn tàng các ngôn từ dân nguyện.
Triết gia tiêu biểu của triết
học Anh có tầm ảnh hưởng đặc biệt đến phong trào Khai sáng Pháp với những triết
gia rất được Hồ Chí Minh ngưỡng mộ như G. Rút-xô, Mông-tec-xki-ơ…, là Giôn
Lôc-cơ. Chỉ khi nói mà không đọc những văn phẩm nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc, chứ
đọc thì đã biết “Chính sách ngu dân” của thực dân Pháp ở nước ta cứ “Vấn đề nào
(…) có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi (…) người
ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygo, Rutxo và Mongtexkiơ” là vì mục đích cai
trị.
Nên trong “Khảo luận thứ hai về
chính quyền” G. Lôc-cơ dám cả gan đòi hỏi cho “nhân dân có quyền hành động với
tư cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp, hoặc dựng lên
một hình thức chính quyền mới, hoặc vẫn theo hình thức cũ đó nhưng được đặt vào
tay những con người mới theo những gì họ cho là tốt đẹp” (243) thì,
“Đó cũng là điều mà Hồ Chí
Minh sau này, trong quá trình tiếp thu tinh hoa tư tưởng nhân loại đã nói, và
là điều được giới nghiên cứu trong nước đánh giá là một trong những điểm cách mạng
nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, đó là: Nếu Chính phủ làm hại dân,
thì dân có quyền đuổi Chính phủ” (Lê Tuấn Huy).
Tiếc là “điểm cách mạng nhất” đã
bị phủ lên nó một tấm màn thần bí khiến cái về thứ hai chỉ còn trần trụi ra nỗi
ám ảnh lật thuyền! Sợ hãi trở về với tập quán! Đây là nguyên do của thói tật giấu
giếm. Điều tai tiếng một khi không được phơi bày ra trước công luận mới thành
ra hai cái thấy và không thấy; là tách rời chúng ra thành hai cái “gói ghém”
chúng với nhau, gọi là che lấp mà thành cái “lưu cữu”. Lối phúng dụ của
La-phông-ten, “… như quả bóng tuyết càng lăn càng to cuối cùng thành đá”. Thành
đá… mới phải vào lò!
Giá như “dân chúng được tập
cho thói quen tin tưởng và được khuyến khích giữ niềm tin bởi những người khao
khát vươn tới tính cách của các triết gia” thì “sự giới hạn quyền lực của chính
phủ đối với các cá nhân không mảy may mất đi tầm quan trọng, khi những người nắm
quyền đã phải thường kỳ giải trình trước cộng đồng, tức là trước phe đảng mạnh
nhất” (G. S. Miu).
Cũng vì dân chúng không biết sử
dụng đến quyền được hiến định, nên “Thần linh pháp quyền” mới không thấm được
vào tình cảm đến mức làm chủ thực sự các hành vi. Kẽ hở ở đâu ra, mà nên nỗi
không ít các viên chức trong giới cầm quyền đã không hề tự biết mình; để rồi cuộc
đấu tranh lại chỉ là “tất cả những người có mặt chống báng tất cả những người
có mặt” (Hốp-xơ).
“Nói đi đôi với làm” cũng là
phong cách. Nhưng phong cách còn là một cái gì hơn thế, ở tầm phương pháp luận.
Phương Đông từng cung cấp một phương pháp logic mà mọi người nếu có niềm tin đều
có thể theo được: “Vật cách nhi hậu tri chí, tri chí nhi hậu ý thành, ý thành
nhi hậu tâm chính, tâm chính nhi hậu thân tu” (Lễ ký). “Cách vật” theo nghĩa này phải đâu là “thấu hiểu
tới nơi”. “Cách vật” một phong thái đặc trưng cho nếp lập thân lập nghiệp “thân
dân” là từ bỏ sự bất chính trong lòng để tất cả đều ngay thẳng.
Lấy sự ngay thẳng mà tu sửa,
thì “Khoan thư sức dân” không gì ngoài “Sử dân dĩ thời”. “Nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền
từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra… Nói tóm lại quyền hành và quyền
lực đều ở nơi dân” [5. 698]. “Những khi ẩn nấp nơi núi non hoặc ra vào chốn tù
tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”.
Đây không phải là nếp nghĩ của
ông vua, càng không phải là nếp nghĩ của “ông cộng sản” chính thống có dòng chữ
đề ngay ở trán! Chỉ có Hồ Chí Minh mới có thể biểu đạt tình cảm cá nhân theo
cách đề xuất cho đồng bào mình con đường và phương tiện cải thiện đời sống của họ.