Thứ Hai, 13 tháng 6, 2022

VỤ ĐỒNG TÂM VÀ PHÉP SUY LÝ TỐ NHÂN (đoạn 2)

Ý nghĩa của một chế độ chỉ mỗi sự nó có lợi cho ai về cái gì, ý nghĩa của một chủ trương chính sách mới là ở chỗ nó làm sản sinh ra những hành vi hay phẩm cách nào. Thành ra mà giả định là nỗi ác cảm pháp luật không phải ở tính hà khắc của nó; cũng không ở cái vẻ ngoài “nếu chúng ta sai chúng ta xin lỗi dân, nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.

Là bởi “chúng ta” là tập họp gồm những ai, người có thiện cảm với pháp luật (chỉ người có thiện cảm với cái gì) thì mới phải có trách nhiệm với nó, để từ đó mà chỉ ra ai “phải chịu trách nhiệm” trước pháp luật mới là người không có thiện cảm gì với pháp luật. Chứng tỏ, nỗi ác cảm với pháp luật mới là tình cảm tự nhiên con người, gắn liền với khi ra đời của pháp luật. Ý thức pháp luật trong khi chặn mọi khả năng phát triển lên của tâm lý pháp luật thì nó là cái thường xuyên duy trì củng cố tâm lý pháp quyền do đó mà nỗi ác cảm với pháp luật trở nên đặc trưng cho đời sống tinh thần ở cấp độ trực tiếp đời thường. Nó gần gụi với tồn tại như là thứ diện mạo nham nhở của cơ cấu kinh tế qua sự thể hiện những lợi ích trực tiếp mà thông tin đầy đủ cho những mức độ chín muồi của những quan hệ thống trị. Khiến lý luận pháp quyền mà không biểu hiện được những lợi ích xã hội trực tiếp thì tự nó chỉ làm nhục nó mà thôi.

Nếu pháp luật là ý chí của nhân dân được đề lên thành luật lệ thì các cá nhân các chính phủ phải chịu đựng sự áp chế của nó để được vui vẻ mà cùng nhau phục vụ như các thần báo thù tại phiên xét xử Orest về tội giết mẹ thì đúng là chỉ có trong thần thoại. Còn như mà nỗi ác cảm với luật pháp hiện hành gia tăng trong giới cầm quyền biểu hiện qua lối hành xử không cần luật pháp thì cứ phải giả định là luật pháp đã không có được sự tự tôn đáng kính. Chỉ duy nhất một cách mà cơ quan lập pháp tức Hội đồng Tối thượng không thể không làm là thiết lập được hệ thống các chể tài. Bởi lẽ, một ý chí tập thể có đúng đắn đến mức nào thì cũng không bao giờ đủ làm bảo chứng cho tất cả các phán đoán nhằm đưa đến mỗi hành vi không có sai lầm!

Một trong những tiền giả định cơ bản của luật học thì đương nhiên là các phép xác định bằng ngôn từ mà về cơ bản dành để nói về các trải nghiệm thường ngày. Nhưng ngôn ngữ pháp luật thì phải biểu đạt một cách rõ ràng về kết quả dự kiến. Để kết quả dự kiến có thể thực hiện hay được thực thi thì ngôn từ pháp lý lại không bao giờ truyền tải đến hết những gì sẽ xảy đến. Nhưng tất cả các hoạt động xã hội đi vào trật tự, khi ngôn ngữ pháp quyền vẫn là tiền giả định cho tất cả các hành vi là ở tính chế tài. Bởi lẽ nếu muốn nói về một điều gì đó về tự do – mà luật pháp thì còn làm gì khác, thì chỉ bằng cách này hay khác chuyển từ ngôn ngữ luật pháp thành ngôn ngữ đời thường, bởi một khi đã đi theo hiến pháp thì mọi việc chỉ theo đó mà phân xử thôi. Trách nhiệm giải trình trước Hội đồng lập pháp mới làm phát lộ thứ đạo lý: cái anh muốn thì muốn cho người, cái anh không muốn thì đừng làm cho người. Đấy mới là nguyên tắc luật pháp áp dụng vào“mỗi người vì mọi người mọi người vì mỗi người”. Không ai làm gì mà lại không mong muốn hưởng lợi vì cái phải lo tránh trước là các tai vạ đang rình rập. Việc coi thường tâm lý pháp quyền là giành cho lý trí luật pháp tầm quan trọng quá mức. Cái “quá mức” là cái “mầm loạn”, loạn danh sẽ làm cho danh bất chính khiến ngôn không thuận khi hành sự mới không ra tấm ra miếng! Đó là hệ lụy của một thứ ảo tưởng về một tinh thần phổ biến làm cơ sở cho tính tự giác như nhau trong thi hành pháp luật mà thực chất chỉ là chiếm dụng cá nhân quyền phát ngôn trong mọi hoạt động giải thích luật pháp. Hoạt động tố tụng dẫu có nhiều sai sót thế nào thì bản chất của vụ án “giết người” không thay đổi sang tội “sát nhân” bởi “pháp luật là tao”! Khi đó nó chỉ còn cách thả nổi cho những tâm lý pháp quyền, tình cảm pháp luật sẽ lấn dần, át hết lý trí luật pháp. Làm gì mà có một cuộc thảo luận có tính học thuật trong một nền tư pháp mà Hiến pháp cũng là một văn kiện quan trọng nhưng hạng hai!

Trong một quốc gia, guồng máy cai trị mà biết vận hành theo pháp luật, tức hoạt động theo nguyên tắc phổ biến, một cách tự nhiên nó được cấp cho tiêu chuẩn khách quan về đúng, sai. Các thang độ đúng sai sẽ tự biểu hiện qua việc khơi gợi đến mức nào các phản ứng thích hợp của con người, nhất là ở người dân, như một thứ “phong vũ biểu” có tính biểu trưng cho những cảm xúc xã hội qua việc thưởng phạt, khi đó các quan chức nhà nước mới “không làm gì mà không gì không làm”. Ra sắc lệnh mà người ta không làm thì phải chọn cách không ra lệnh mà người ta vẫn làm, bởi cái tốt và đúng với trật tự tự nhiên là do bản chất của sự vật mà không đợi khi có những quy ước được xã hội đặt ra. Pháp luật đặt ra chỉ là để ngăn cấm điều bạo ngược, không ngăn cấm được điều bạo ngược thì “luật pháp càng tăng, trộm cắp càng lắm” là điều hàm ẩn tiền giả định ngữ dụng.

Các quan chức chính phủ thì còn làm gì nếu không phải là dành trọn thời gian cho việc thực thi pháp luật. Không như vậy thì có bao giờ mới có được mối tương quan không thuận nghịch giữa hiệu lực pháp luật với chất lượng công vụ qua các mức độ dân chúng cảm thụ sự hài lòng. Lúc đó xã hội mới chỉ còn “hoặc là… hoặc là…” trong đó là bọn tội phạm bị cô lập, đúng chất lượng có “số má” là đối tượng của pháp luật. Tương ứng với tình hình này là sự biến mất khỏi đời sống ngôn ngữ đời thường những ngôn từ “vừa là… vừa là…” bởi sự dung túng của những khái niệm pháp luật mất quyền kiểm soát. Lúc này thì pháp luật mới không thể không đem dùng bởi bản chất của pháp luật chỉ hiện ra khi tự nó cảm thụ được nhưng xung đột lợi ích, trong khi chức năng cơ bản của pháp luật tìm kiếm sự ủng hộ từ dân chúng chỉ qua việc chỉ dẫn cho dân chúng thấy những kẻ đang xâm hại mình.

Chỉ những “bị hại” hay người thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị xâm hại mới mong muốn những phiên tòa “đúng người đúng tội”. Cho nên các vị phán quan chỉ khi phải chịu sự chất vấn của dư luận mới không biến “đúng người đúng tội” thành lưỡi sắc trong khi bản thân các anh chỉ là những chuôi dao!

Thứ ý ngầm ẩn trong hiển ngôn tăng cường pháp luật, che đậy được sự bê trễ pháp luật! Bê trễ pháp luật liệu còn có nghĩa nào khác với pháp luật không được đem dùng? Pháp luật không được dùng đến chỉ là thứ pháp luật bất minh, thứ pháp luật để dùng cho việc giả định kẻ cầm quyền bị coi là nhất thiết phải ở vị trí đối kháng với ai mà họ cai tri. Nên phải coi sự phản kháng lại quyền lực cai trị là hành vi hợp pháp. Chỉ khi nào không có sự đánh lận con đen giữa những hành vi phản kháng lại với những hành vi bạo lực lật đổ có tổ chức mới có được sự bình tĩnh nhìn nhận ra được điều “Nếu Chính phủ làm hại dân, dân có quyền đuổi chính phủ” là “điển phạm” của cách mạng mang tính nhân dân!

Thiết nghĩ, sẽ là thừa thãi với các nhà luật học nếu mà lại đi nói rằng một câu điều kiện là sai khi và chỉ khi tiền kiện là đúng và hậu kiện là sai để tránh phải nói ngay, hãy có ngay những biện pháp chế tài cho đội ngũ những nô bộc làm việc cho dân mà không chịu trách nhiệm về những hậu quả xã hội do công vụ của họ dẫn đến. Pháp lý nào cho phép để xảy ra những bê bối ở Đồng Tâm nếu công việc quản trị thì chỉ là “làm lúc chưa có trị lúc chưa loạn”. Vậy là thấy ngay, thành tích của một công vụ bao giờ cũng là vốn dĩ vì luật pháp không bảo hộ cho sự thành công của các hoạt động công vụ thì để làm gì? Nhưng luật pháp lại không có bản lĩnh để biện minh cho những hậu quả xã hội mà “vinh quang phải được đối xử bằng tang lễ” (Tuân tử). “Bác không gọi trận đánh chết nhiều người là trận đánh đẹp” (VP) vậy thì cái hậu họa lâu dài là cuộc đại chấn thương tâm lý cộng đồng kia mới là cái đáng phải ngăn chặn từ đầu.

Cả hai phiên xét xử vụ án Đồng Tâm của Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội mới là dầu đổ vào ngọn lửa Đồng Tâm!